Bấy giờ, tôi không biết “tập kết” là thế nào, nhưng nghe nói được đi học, tôi ưng cái bụng lắm. Vậy là mấy chú, mấy bác khi đi tập kết dẫn tôi theo. Ra Bắc, tôi được cho vào học Trường Thiếu sinh dân tộc Trung ương tại Gia Lâm, cùng học chung với tôi còn có nhiều dân tộc khác như Hmông, Ê-đê, Gia-rai…
Sau đó, khoảng năm 1957 chúng tôi được chuyển về học tại Thanh Trì, vốn thích đàn ca hát xướng, chạy nhảy nên tôi cảm thấy chán học. Biết được sở thích của tôi, mấy thầy yêu thương ưu ái chuyển tôi qua học Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Nhạc viện Hà Nội). Nghe nói thế, tôi hết sức bất ngờ vì nói chưa sõi tiếng Kinh thì làm sao học nhạc? Tại trường, tôi theo học lớp sơ cấp và được dạy từ ca hát đến lý luận phê bình, lý thuyết âm nhạc, ký xướng âm…
Nhạc sĩ Kpa Ylăng
Ở trường chỉ mỗi mình là người dân tộc nên tôi cô đơn lắm, từ học hành đến sinh hoạt chỉ lủi thủi, không có ai bè bạn. Thời gian trong này, tôi chỉ biết tập trung vào việc học nên tiến bộ rất nhanh. Mọi người thường khen tôi học giỏi, có năng khiếu tiếp thu nhanh. Ban Giám hiệu nhà trường cũng quan tâm đến việc học hành của tôi, rồi không ngờ hiệu trưởng là thầy Tạ Phước chọn tôi đi học nước ngoài. Học ở đâu? Học ở Trung Quốc. Đi thì đi. Nói mạnh miệng như vậy, chứ trong bụng tôi cũng thấy lo vì chưa biết qua đó mình sẽ học như thế nào?
Năm đầu tiên ra nước ngoài, đoàn chúng tôi được tập trung học tiếng Trung Quốc, tôi học ngoại ngữ rất giỏi. Rồi qua năm sau, tôi được chọn vào Nhạc viện ở Thượng Hải, học về khoa lý luận phê bình, sáng tác, sử dụng các loại đàn, học hát… Hai năm sau trở về nước, tôi tiếp tục học nhạc tại Yên Dũng (Hà Bắc). Năm tháng này đã diễn ra một sự kiện quan trọng nhất, ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời tôi. Đó là vào một ngày, thầy Tạ Phước gọi tôi lên văn phòng nhà trường và nói: “Anh học giỏi, biết sử dụng thành thạo nhiều loại đàn nhất là accordion, hiện nay bộ đội ở chiến trường miền Nam cần anh đó. Anh về đó, đàn hát phục vụ cho bà con, bộ đội, du kích anh nghĩ sao?
Với tôi, thầy Tạ Phước là người mà tôi rất tin cậy và kính trọng. Thầy sinh năm 1919, quê ở Thường Tín, Hà Tây (nay Hà Nội); là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Âm nhạc Việt Nam, thành viên sáng lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam (1957), Ủy viên Ban Thường vụ Ban Chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa I (1957-1963). Thầy hoạt động âm nhạc từ trước Cách mạng Tháng Tám 1945, chơi đàn violon, sáng tác một số ca khúc được nhiều người yêu thích, trong đó có bài Tận tâm báo quốc. Thầy cũng là một trong những nhạc sĩ Việt Nam có tác phẩm khí nhạc được sử dụng phổ biến trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp như bài độc tấu đàn violon Xa khơi… Do đó, khi nghe thầy nói vậy, tôi hết sức vui mừng vì tôi là người miền Nam, được trở về miền Nam là đúng ý nguyện. Tôi thưa với thầy là mình đồng ý nhận lời.
Trong năm 1967, từ Hà Tây trở về Hà Nội, chúng tôi được huấn luyện mang vác khi hành quân trèo non vượt suối, học tập quy định ở chiến trường… Có một điều nay ít ngờ tới là đoàn chúng tôi như ca sĩ, diễn viên Tô Lan Phương, Duy Nải, Thế Hải… được đi máy bay từ Hà Nội đến Phnôm Pênh và được ông Nguyễn Văn Hiếu tiếp đón long trọng. Sau vài ngày nghỉ ngơi, chúng tôi đi xe ngụy trang bít bùng chở về căn cứ Tây Ninh. Tại đây, đoàn chúng tôi nhập vào Đoàn Văn công Giải phóng, được làm quen và trở nên thân thiết với các anh đạo diễn, nhạc sĩ như Thái Lý, Việt Cường, Phạm Minh Tuấn…
Từ năm tháng đó, Đoàn Văn công Giải phóng đi lưu diễn khắp nơi. Tôi còn nhớ lúc diễn ở Long An, khi thấy tôi suốt chương trình chỉ đứng kéo đàn accordion, có mấy bà má thương quá, họ đem ghế lên sân khấu cho tôi ngồi, dường như vẫn thấy chưa chu đáo lắm, họ còn đem cho cả xị rượu nữa. Ôi, tình cảm của bà con miền Nam mình chất phác và tốt bụng, tôi nhớ mãi.
Lại nữa, khi diễn ở Cà Mau, nhờ bà con nơi này, tôi mới học được tiếng “đàn gió” bởi họ không gọi cây đàn của tôi là accordion hoặc phong cầm. Họ “lý luận” rằng, cây đàn này khi kéo ra kéo vào là lấy hơi gió rồi mới dùng các ngón tay bấm nốt nhạc để phát ra âm thanh. Nghe thế, tôi phục sát đất.
Không thể không nhắc lại cảm xúc khi được Tuyên huấn Trung ương Cục giao nhiệm vụ tham gia trong Cuộc tổng khởi nghĩa nổi dậy vào mùa Xuân Mậu Thân 1968, tôi đã viết bài thơ Người Tây Nguyên mãi theo lời Bác Hồ, là tấm lòng của bà con dân tộc chúng tôi nguyện dâng lên Bác, hướng tới mừng sinh nhật lần thứ 78 của Bác:
Này ơi cái rẫy cái nương yêu dấu
Con chim nó có cái tổ cái đàn
Nó biết vui khi mỗi độ xuân sang
Thì người Tây Nguyên cũng yêu quý vô vàn
Vị cha già Việt Nam vĩ đại.
Ơi những ngôi sao lung linh phương Bắc
Nhớ thưa với Bác rằng:
Người Tây Nguyên đang một lòng xông tới
Giành cuộc đời đổi mới ấm no
Và người Tây Nguyên mãi mãi theo Bác Hồ
Vì người Tây Nguyên quý: Độc lập Tự do.
Có thể nói, những năm tháng đó, cùng với đồng đội trong Đoàn Văn công Giải phóng, tôi đã sống hết mình vì tinh thần phục vụ theo yêu cầu của chiến trường miền Nam. Đặc biệt từ năm 1968, tôi có cảm hứng sáng tác âm nhạc từ những chất liệu dân ca của các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên như Ba Na, Ê-đê, Gia-rai… được phát trên sóng Đài Phát thanh và Truyền hình Việt Nam.
Ngày đất nước thống nhất, tôi được chuyển về làm công tác nghiên cứu tại Phân viện Văn hóa - Nghệ thuật tại TPHCM, là một trong những người đầu tiên tham gia sưu tầm dân ca Khánh Sơn (1979), viết nghiên cứu Âm nhạc trong lễ đâm trâu của dân tộc Ba Na Phú Khánh và Nghĩa Bình, Âm nhạc dân gian ở Tây Nguyên… Ngoài ra tôi còn nhận được Giải Nhất ca khúc năm 2002 của Hội Nhạc sĩ Việt Nam; Giải Ba năm 2002, 2003, 2004 và năm 2006 về ca khúc, thơ, ảnh của Hội Văn học - Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam... Mùa xuân này, đã ngoài 80 xuân nhưng tôi vẫn không quên tiếng lòng của mình đã thể hiện qua thơ viết vào xuân 1968 tại chiến trường miền Nam:
Ơi mùa lúa rẫy nương hương thơm ngào ngạt
Ơi đồng cỏ Gia Lai bát ngát màu xanh
Ơi các ngôi sao cao vút lung linh
Chúng mày hãy bay về phương Bắc
Cho người Tây Nguyên gửi cả mối tình
Tới Bác Hồ và dân mình ngoài đó.