Mùa của nhiều sản vật
Mùa lũ năm 2025 được người dân ĐBSCL xem là mùa lũ hiền hòa, mang nhiều lợi ích cho người dân trong vùng. Nước từ thượng nguồn đổ về, chảy tràn lên các cánh đồng tạo cho cảnh quan nơi đây rất đẹp. Theo Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Nam Bộ, năm nay lượng nước lũ về sớm hơn cùng kỳ khoảng 10 ngày. Tại tỉnh đầu nguồn An Giang, hệ thống công trình kiểm soát lũ vùng Tứ Giác Long Xuyên đã được kích hoạt nhằm bảo vệ vụ sản xuất lúa hè thu năm 2025 của nông dân An Giang và Cần Thơ.

Người dân vùng ĐBSCL tranh thủ khai thác cá mùa lũ để mưu sinh
Hàng trăm năm qua, mùa lũ tại ĐBSCL không chỉ là hiện tượng tự nhiên, mà còn là biểu tượng văn hóa, là sinh kế, hơi thở của người dân miền Tây Nam Bộ. Lũ về, dòng nước đỏ ngầu mang theo phù sa, tôm cá. Lũ len lỏi khắp các nhánh sông, con rạch, đồng ruộng, mương vườn, chảy tràn vào Tứ Giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười giúp người dân, chính quyền địa phương tăng cường tháo chua, rữa phèn, hồi sinh những vùng đất chết. Ông Nguyễn Minh Nhị (Bảy Nhị), nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang - người sớm nhận thức về lũ, có tư duy "phải lợi dụng lũ để làm giàu" cho rằng, lũ không chỉ là dòng nước, mà còn là cơ hội sống của hàng triệu cư dân vùng đồng bằng. Những năm 1996 - 2000, thời điểm ông Bảy Nhị làm lãnh đạo tỉnh, hễ đến mùa lũ về, ông chỉ đạo các ngành, các cấp hỗ trợ xuồng, câu, lưới cho dân để đánh bắt cá sinh sống.
Chị Nguyễn Thị Mơ, một ngư dân ở xã Vĩnh Xương, tỉnh An Giang chia sẻ: "Lũ về, bà con mừng lắm. Nhà tui trồng rau màu, mỗi năm đợi lũ về để rửa đồng ruộng. Năm nào lũ lớn, đồng ruộng được bồi đắp nhiều phù sa, đến mùa nước rút, ruộng đất trồng cây gì cũng trúng mùa".
Nước lũ mang theo phù sa, bồi đắp ruộng đồng, rửa chua, khử phèn, tiêu diệt mầm bệnh trong đất. Sau mùa lũ, đất đai màu mỡ, cây trái sinh sôi, lúa mùa sau cũng "trúng lớn". Không chỉ vậy, mùa nước nổi còn là mùa đánh bắt tôm cá, là "mùa làm ăn" của cư dân sống dựa vào thủy sản.
Anh Trần Văn Đờn ở xã Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp, suốt hơn 20 năm gắn bó với nghề đặt lờ, giăng lưới mỗi mùa nước nổi, nói bằng giọng hào sảng: "Lũ là mùa có nhiều cá linh, cá rô, cá chốt... Mỗi buổi sáng dỡ lưới lên là thấy cá mắc đầy lưới, ngày nào hên trúng ổ cá linh non, bán được cả triệu đồng. Năm nay đầu mùa lũ, cá linh bán được giá lên đến 250.000 đồng/kg, vui lắm".
Sống thích ứng
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hữu Hiệp, chia sẻ: "Mùa lũ, người miền Tây có cách mưu sinh rất riêng, họ sống tùy theo con nước. Khi nước tràn đồng, họ thả xuồng, dựng chòi, đặt trúm, giăng lưới. Các dì, các mẹ bắt con cá linh, cá chài nấu nồi canh chua với bông điên điển - món ăn này đã thành đặc sản mùa lũ và có mặt khắp Miền Nam. Cái hay của người Nam Bộ là sống thích ứng rất tốt với thiên nhiên".

Lũ mang về rất nhiều tôm cá cho người dân đồng bằng
Mùa lũ cũng là mùa thu hoạch rau đồng tự nhiên như bông súng, rau nhút, bông điên điển, rau muống... Đây là các loại rau không phải tốn công chăm sóc, người dân chỉ cần hái và đem ra chợ bán. Những sản vật mùa lũ vừa tươi, vừa ngon, lại gợi nhớ miền quê đậm đà bản sắc.
Tại các vùng lũ của An Giang, Đồng Tháp, Long An (cũ), những mô hình sinh kế mùa lũ ngày càng được đa dạng hóa: từ đánh bắt cá linh, nuôi cá đồng tự nhiên trong lồng, đến làm du lịch cộng đồng đón khách thưởng ngoạn mùa nước nổi. Đặc biệt, tại vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, nhiều địa phương đã chuyển đổi linh hoạt giữa các mô hình, hoặc là "1 vụ lúa - 1 vụ cá” hay "trồng sen kết hợp nuôi ốc trong mùa lũ”, cho hiệu quả kinh tế cao.
Ông Lưu Văn Hoàng, Chủ tịch Hội Nông dân xã Châu Phong, tỉnh An Giang nói: "Nông dân mình giờ không chỉ trồng lúa, mà biết tận dụng mùa nước nổi để khai thác thủy sản, trồng sen, trồng bông điên điển, làm du lịch sinh thái. Tư duy khai thác lũ để làm giàu đã được nông dân trong vùng từng bước hiện thực hóa một cách rất tốt".
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, lũ không còn "hào phóng" như xưa. Do tác động của biến đổi khí hậu, các đập thủy điện ở thượng nguồn, cùng hệ thống đê bao khép kín để sản xuất lúa 3 vụ, lượng nước lũ về vùng ĐBSCL ngày càng ít đi, thời gian rút ngắn và tính chất lũ cũng thay đổi. Các nhà khoa học ở Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu, Trường Đại học Cần Thơ nhận định, lũ ở đồng bằng hiện nay đã giảm cả về độ lớn và độ dài. Tình trạng thiếu phù sa, đất nghèo dinh dưỡng đang diễn ra âm thầm, ảnh hưởng đến chuỗi sản xuất nông nghiệp, đó là điều rất đáng lo ngại.
Trên thực tế, nhiều vùng từng là "rốn lũ” như các xã đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu của 2 tỉnh An Giang, Đồng Tháp... nay đã không còn thấy hình ảnh những cánh đồng trắng nước mênh mông. Việc "khép kín đồng ruộng" đã giúp ổn định sản xuất, nhưng cũng khiến thiên nhiên mất đi sự điều hòa vốn có. Ông Nguyễn Văn Huệ - nông dân xã Tân An, tỉnh An Giang bày tỏ băn khoăn: "Hồi xưa lũ về lớn, cá nhiều, đất ruộng làm gì cũng trúng mùa. Giờ đê bao hết, ruộng lúa 3 vụ nhưng đất bạc màu, thuốc nhiều, phân nhiều mà lời không bằng xưa".

Các chợ miền quê ở ĐBSCL bày bán cá thiên nhiên trong mùa lũ
Ứng xử phù hợp
Nhiều chuyên gia cho rằng, đã đến lúc cần nhìn nhận lại vai trò của lũ đối với ĐBSCL. Thay vì "chống lũ” nên chuyển sang "sống chung với lũ” một cách thích ứng và bền vững. Việc quy hoạch không gian sản xuất theo hướng "thuận thiên", theo tinh thần Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ là hướng đi rất đúng đắn. Ông Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia độc lập về sinh thái Mekong nhấn mạnh: "Lũ không chỉ là dòng nước, mà là hệ sinh thái, là hệ thống sinh kế. Phải trả lại một phần không gian cho lũ, để lũ mang lại phù sa, cá tôm và điều hòa sinh thái".
Thực tế cho thấy, các mô hình sản xuất linh hoạt theo mùa nước nổi như nuôi cá đồng, trồng sen, canh tác nông nghiệp hữu cơ, kết hợp du lịch cộng đồng... đang được khuyến khích nhân rộng. Một số nơi như ở Đồng Tháp, An Giang, Long An (cũ) đã xây dựng các mô hình "vùng đệm sinh thái mùa lũ” để tái tạo nguồn lợi tự nhiên và tăng khả năng hấp thu nước lũ.
Hằng trăm năm qua ở ĐBSCL, lũ không chỉ là hiện tượng tự nhiên mà lũ đã đi vào thơ ca, nhạc họa, vào lời ru của mẹ, vào ký ức tuổi thơ của biết bao người miền Tây. Những đứa trẻ lội nước bắt cá lia thia, thả thuyền lá chuối trôi lững lờ trên con rạch nhỏ. Những buổi chiều nước nổi mênh mang, khói bếp nhà ai phảng phất hương cơm mới, hương cá kho tộ đậm đà, tất cả thật đáng để thương, đáng để nhớ.
Có lẽ, tình cảm của người dân đồng bằng đối với mùa lũ cũng chính là tình cảm của người miền Tây với quê hương, với đất đai, với thiên nhiên. Đó là thứ tình cảm thủy chung, đậm đà, mộc mạc nhưng cũng rất đỗi bền bỉ - như dòng nước sông Hậu, sông Tiền không bao giờ ngừng chảy.
Hiện nay, lũ vẫn về với vùng châu thổ Cửu Long, dù có thể ít hơn, thấp hơn nhưng nếu biết quy hoạch hợp lý, giữ lại những vùng trũng tự nhiên, khôi phục hệ sinh thái ngập nước và đa dạng hóa sinh kế, thì lũ sẽ lại trở thành "bạn đồng hành" của người dân ĐBSCL.
ĐBSCL hôm nay đứng trước nhiều thử thách nhưng cũng có những cơ hội mới. Từ kinh nghiệm "sống chung với lũ” bao đời, người dân nơi đây hoàn toàn có thể xây dựng một tương lai hài hòa với thiên nhiên, nơi mùa lũ trở lại không chỉ bằng nước, mà bằng cả hy vọng và sinh khí mới. Quy hoạch sản xuất theo hướng "thuận thiên" là một minh chứng sống động.
"Không phải nơi nào cũng có được thiên nhiên như miền Tây mùa lũ. Trời cho nước, nước cho cá, cá cho cơm, rau cho vị. Thiên nhiên hào sảng nên con người nơi đây cũng rất rộng mở. Ở miền Tây, ai ghé nhà cũng được mời chén cơm, tô canh chua cá linh, không cần hỏi tên hay thân phận. Dân miền Tây nghèo vật chất chớ không nghèo tình, nghèo nghĩa và ứng xử hài hòa với lũ là điều rất cần thiết cho ĐBSCL hiện nay" - Nhà nghiên cứu Văn hóa Dân gian Nguyễn Hữu Hiệp, An Giang, chia sẻ.