Hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Nam Bộ kháng chiến (23/9/1945 - 23/9/2025):

Bài cuối: Chiến khu bưng biền Đồng Tháp Mười - Một thời để thương, một thời để nhớ

Thứ Hai, 22/09/2025 10:12

|

(CATP) Phong trào văn nghệ cũng được phát triển sôi nổi. Một số xã thành lập được Đội văn nghệ. Một số đoàn văn công của Khu, tỉnh cũng được thành lập như: đoàn Chim Việt, Mạ Xanh, Lúa Vàng, Măng Tre... để đi biểu diễn lưu động. Chương trình biểu diễn thường gồm nhiều tiết mục, ca kịch, múa hát, tấu, ngâm thơ, còn có những ca khúc Cách mạng: Tiểu đoàn 307, Lên đàng, Chiến sĩ Việt Nam, Lá đỏ. Về múa, có những điệu múa: Sản xuất tự túc, Nam Bộ kháng chiến, Mùa đông binh sĩ... Về kịch, có những vở: Lòng dân, Cá về đâu (của Nguyễn Văn Xe); Nam Kỳ khởi nghĩa (của Hoàng Xuân Nhị), Người mặt cháy (của Khương Mễ), Đồng xanh máu đỏ (của Bảo Định Giang), Chiếc áo đêm trăng (kịch thơ của Nguyễn Bính)...

Đồng Tháp Mười đã sinh ra ngành điện ảnh Cách mạng đầu tiên trong cả nước vào cuối năm 1947, với nhiều phim quay từ mặt trận như: Trận Mộc Hóa, Trận La Bang, Chiến dịch Cầu Kè (Trà Vinh). Các phim giáo dục và tư liệu như: Trường Quân chính, Binh công xưởng, Phòng Quân nhu Quân khu 8...

Phòng Chính trị Khu 8 đã tổ chức nhiều đội chiếu phim lưu động đi chiếu cho bộ đội và Nhân dân xem. Đặc biệt, có đội võ trang tuyên truyền quân số lên tới 90 người, đã đi khắp các vùng xung yếu của các tỉnh trong Quân khu 8 để hoạt động.

Ngày 02/9/1947, tại Thiên Hộ trên bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp, xảy ra một sự kiện chính trị quan trọng. Bộ Tư lệnh Quân khu 8 đã long trọng tổ chức cuộc lễ để kỷ niệm hai năm ngày Quốc khánh. Hơn 30.000 quần chúng từ khắp các nơi trong chiến khu Đồng Tháp Mười, cũng như đồng bào trong nội thành Sài Gòn và các tỉnh lân cận về dự.

Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ Phạm Ngọc Thuần (đại diện chính quyền), Khu trưởng Khu 8 Trần Văn Trà (đại diện bộ đội) và Tổng Thư ký Kỳ bộ Việt Minh Nam Bộ Trần Bạch Đằng (đại diện Mặt trận Việt Minh) đã duyệt các đơn vị võ trang trong hàng ngũ chỉnh tề. Sau buổi lễ, đồng bào tham dự một cuộc hội chợ triển lãm tại chợ Thiên Hộ, gồm nhiều gian hàng trưng bày nông sản và hàng thủ công, trưng bày ảnh nghệ thuật và ảnh các trận Giồng Dứa, Cổ Cò, Ba Tri, Tân Xuân... gây ấn tượng mạnh cho người xem.

Tại gian triển lãm của Vệ quốc đoàn Khu 8, họa sĩ Diệp Minh Châu đã tự cắt lấy máu mình vẽ bức tranh Bác Hồ ôm vào lòng 3 cháu thiếu nhi Trung Nam Bắc, trên tấm lụa lấy được của địch trong trận Giồng Dứa.

Việc xây dựng và phát triển ngành y tế, giáo dục

Về giáo dục, thời Pháp thuộc, 95% số dân Đồng Tháp Mười bị mù chữ. Một trong những thành quả lớn nhất của việc xây dựng chiến khu, là sự phát triển mạnh mẽ phong trào bình dân học vụ, phong trào bổ túc văn hóa trong Nhân dân và cán bộ. Tỷ lệ người mù chữ trong bộ đội, cán bộ thuở ấy chiếm từ 15 - 20%. Đây là phong trào mang tính cách mạng và tính quần chúng sâu rộng. Việc chống giặc dốt được gắn liền với nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm và giặc đói.

Khẩu hiệu "người biết chữ dạy người chưa biết chữ", đã được nhiệt liệt hưởng ứng từ già đến trẻ. Thầy giáo có thể là cán bộ, bộ đội, trí thức, sinh viên, học sinh từ thành phố, thị xã ra đi kháng chiến. Trường học có thể là ngôi đình làng, chùa, miếu, có khi là nhà một gia đình khá giả ở thôn ấp. Giấy thiếu thì dùng lá chuối. Còn than, gạch non thì thay bút mực, miễn sao để học được chữ. Trong các cơ quan, binh công xưởng, đơn vị bộ đội, bệnh viện, trạm gác giao liên... đâu đâu cũng có lớp bình dân học vụ. Học đêm, học ngày, học cả trên đường hành quân, học giữa giờ nghỉ.

Một lớp bình dân học vụ trong chiến khu Đồng Tháp Mười, năm 1947

Một điều đặc biệt là, ở vùng ven Đồng Tháp Mười, trên những địa bàn tranh chấp giữa ta và địch, bọn Pháp khủng bố dữ dội phong trào bình dân học vụ. Trong các cuộc hành quân càn quét, hễ vào nhà nào có dấu vết của bình dân học vụ như sách vở, phấn, bút, bảng đen là chúng đốt phá. Vì vậy, sau mỗi buổi học xong, phải cẩn thận xóa hết mọi dấu vết để bảo đảm sự an toàn.

Ngoài thành quả lớn của phong trào bình dân học vụ, phong trào bổ túc văn hóa trong Nhân dân và cán bộ, lĩnh vực giáo dục phổ thông, có một ý nghĩa quan trọng trong căn cứ địa kháng chiến. Sau một thời gian ổn định tình hình, củng cố lại tổ chức trong những ngày đầu kháng chiến, ở chiến khu Đồng Tháp Mười cũng như những địa phương khác, chính quyền Cách mạng bắt tay ngay vào việc xây dựng hệ thống ngành giáo dục, nhằm đáp ứng cho nhu cầu học hành của Nhân dân. Giữa năm 1948, Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ chủ trương tổ chức Trường trung học kháng chiến đầu tiên ở Nam Bộ - đó là Trường trung học kháng chiến Thái Văn Lung, mở ở Đồng Tháp Mười, do Giáo sư Ca Văn Thỉnh làm hiệu trưởng. Tại các huyện đều có mở trường tiểu học, như ở Mộc Hóa có 4 trường.

Các trường lớp ở trong chiến khu đều xây dựng bằng cây, lá, nhưng nội dung giảng dạy và người thầy thì đã hoàn toàn thay đổi. Dần dần các trường đều giảng dạy theo chương trình thống nhất, do Sở Giáo dục Nam Bộ biên soạn.

Trong những yếu tố đã làm cho ngành giáo dục thời kháng chiến chống Pháp đạt được những thành tích lớn, cần nhấn mạnh đến đội ngũ giáo viên. Sau ngày tiếng súng của cuộc Nam Bộ kháng chiến chống Pháp bùng nổ, hàng ngàn trí thức công chức đã từ giã đô thành vào chiến khu. Đội ngũ này đã giữ một vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực công tác, nhưng đông nhất là ở ngành giáo dục.

Về y tế: Một trong những lĩnh vực hoạt động rất quan trọng trong việc xây dựng chiến khu Đồng Tháp Mười là công tác phòng bệnh và chữa bệnh trong cán bộ, Nhân dân. Từ trong những ngày đầu kháng chiến, trên chiến trường Đồng Tháp Mười, chúng ta đã bị thiếu thốn nhiều loại nhu yếu phẩm - đặc biệt là vải mặc, thuốc trị bệnh và dầu lửa... Thuở ấy, nạn dịch tả và lên trái trời đã làm hàng trăm người thiệt mạng. Trước tình hình đó, các cấp ủy đã chỉ đạo mỗi xã thành lập một đội cấp cứu để chữa bệnh cho Nhân dân bằng thuốc men và theo phương pháp y học cổ truyền.

Ngay trong đội ngũ nghĩa quân của Võ Duy Dương ở giữa thế kỷ 19, cũng có các vị lương y nổi tiếng, trong đó có những thầy thuốc rắn thiện nghệ - như ông Thủ Chiếu...

Chiến khu Đồng Tháp Mười là nơi ra đời của ngành y tế kháng chiến do Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng có công đầu xây dựng, với trọng trách là Giám đốc Sở Y tế Nam Bộ. Ông được Bác Hồ, Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Bộ rất tín nhiệm. Công lao lịch sử của ông, là đã trình bày với Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ những phương châm cơ bản để xây dựng chương trình hành động của ngành y tế kháng chiến. Một là, truyền bá và phổ cập rộng rãi trong Nhân dân nếp ăn ở có vệ sinh để phòng, chống bệnh tật. Hai là, sản xuất những loại thuốc ngừa (nay gọi là vắc-xin) để dập tắt bệnh đậu mùa và bệnh tả. Ba là, tận dụng khả năng và kinh nghiệm của những thầy thuốc Nam, thầy thuốc Đông y đi đôi với tự túc thuốc men từ cây cỏ có sẵn. Bốn là, đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên của ngành y tế từ thấp đến cao.

Một đặc điểm trong sự chỉ đạo sáng suốt của Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh trên chiến trường Nam Bộ là thống nhất quản lý quân và dân y về một mối. Ở Nam Bộ, Sở Quân dân y được thành lập do Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng làm Giám đốc.

Cho đến ngày cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc (7/1954), tỉnh nào, huyện nào trong vùng giải phóng cũng có bệnh xá, cấp Khu và cấp Nam Bộ đã có Quân y viện và Dân y viện, nhiều xã có nhà hộ sinh, có khoa răng, chuyên khoa mắt và tai mũi họng. Có lúc "cấy Phi-la-tốp" đã trở thành niềm hãnh diện của kháng chiến. Đặc biệt, bệnh thiên thời (tả) và trái trời (đậu mùa) đã bị loại ra khỏi vùng giải phóng.

Có một điều đặc biệt thú vị là, ngoài chủ trương đề ra về việc tổ chức thực hiện phong trào "đời sống mới" trong khu kháng chiến, bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng còn là người đầu tiên đề xướng ra việc khoét một lỗ vuông trên chiếc nóp và may vào đó một mảnh vải mùng giúp cho người nằm nóp không bị ngộp và có thể thở thoải mái bầu không khí trong lành bên ngoài.

Công tác hoạt động đối ngoại ở chiến khu Đồng Tháp Mười

Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp trên chiến trường Nam Bộ, giữa ta và Pháp đã có một số cuộc tiếp xúc để giải quyết các vấn đề có liên quan về chiến sự. Đầu năm 1946, để thi hành Hiệp định sơ bộ 6/3, theo đề nghị của phía Pháp, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 đã cử Giáo sư Phạm Thiều đi gặp Phái đoàn Pháp, do đại tá Feller cầm đầu. Ở Quân khu 9, đồng chí Huỳnh Phan Hộ gặp viên chỉ huy Pháp trên chiếc tàu chiến tại Vàm Xáng - Ngang Dừa. Tuy nhiên, cả hai cuộc gặp đều không đạt được kết quả.

Công tác đối ngoại của ta, chủ yếu diễn ra tại chiến khu Đồng Tháp Mười: Tháng 10/1946, nhà báo nổi tiếng Pháp Jean Lacouture vào thăm chiến khu bưng biền Đồng Tháp Mười. Ông đã được một số vị lãnh đạo trong Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ đón tiếp. Theo hồi ký, trong số những nhân vật mà ông được gặp, có hai trong ba luật sư, một linh mục, một kiến trúc sư và một nhà chức sắc tôn giáo.

Khoảng năm 1947, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy Nam Bộ tiếp đồng chí Léo Figuèrre - Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng Cộng sản Pháp để trình bày rõ về cuộc kháng chiến chính nghĩa của Nhân dân ta.

Khoảng năm 1948, Trung tướng Nguyễn Bình tiếp ông Adam Savary - Nghị viên Hội đồng Liên hiệp Pháp, được Đảng Xã hội Pháp giao trách nhiệm tìm cách tiếp xúc với ta về việc chấm dứt chiến cuộc.

Bản doanh của tướng Nguyễn Bình lúc đó là một căn nhà lá nằm trên bờ kênh Dương Văn Dương được Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát trang trí đẹp mắt. Những cây tre tươi được đốn và cho đập dập để phủ lên nền đất như những tấm thảm xanh. Bản đồ chiến sự được trải rộng trên vách. Trên bàn làm việc có cắm quốc kỳ. Một trung đội được mặc đồng phục bằng vải kaki màu vàng được bố trí làm hàng rào danh dự để bồng súng chào.

Khi vào bàn làm việc, Trung tướng Nguyễn Bình ngồi đối diện với ông Adam Savary. Cùng tiếp khách với Trung tướng, có kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát - Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, kỹ sư Lê Tâm - Trưởng phòng Quân giới Nam Bộ và một số cán bộ quân sự.

Về phía ông Adam Savary, cùng đi có luật sư Trịnh Đình Thảo, dược sư Nguyễn Văn Liễn và nhà văn Thiếu Sơn.

Phần phiên dịch từ tiếng Việt ra tiếng Pháp, do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát và kỹ sư Lê Tâm đảm nhiệm. Phần đáp từ bằng tiếng Pháp của ông Adam Savary, Trung tướng Nguyễn Bình nghe trực tiếp, không qua phiên dịch. Người chuyên trách việc nấu nướng, do bà Lê Đình Chi tổ chức.

Sau cuộc tiếp khách, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát có tổ chức một cuộc triển lãm trên bờ kinh Dương Văn Dương để giới thiệu về cuộc chiến đấu của quân dân ta và đời sống đồng bào ta trong chiến khu. Ngôi nhà triển lãm tuy chỉ cất bằng tre nứa lá nhưng được thiết kế rất đẹp, đã làm cho ông Adam Savary ngạc nhiên và thán phục.

Bài 4: Thủ đô kháng chiến huyền thoại giữa bưng biền
 

Bình luận (0)

Lên đầu trang