Ngày 28/11/2025, Hội thảo khoa học “Chương trình quốc gia phát triển công nghệ chiến lược - Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam”, do Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp cùng ĐHQG TPHCM và Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia TP.HCM tổ chức, nhấn mạnh yêu cầu xây dựng chiến lược dài hạn gắn với thực thi hiệu quả, đồng bộ giữa Nhà nước - Viện, Trường - Doanh nghiệp. Trong bối cảnh thế giới bước vào chu kỳ đổi mới công nghệ với tốc độ chưa từng có, việc làm chủ công nghệ lõi đang trở thành điều kiện quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia.
Phát biểu khai mạc, ông Hoàng Anh Tú, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và công nghệ, Bộ KH&CN, cho biết Bộ đang trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển sản phẩm công nghệ chiến lược ưu tiên triển khai ngay. Ông dẫn Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, trong đó chỉ rõ điểm nghẽn lớn nhất của Việt Nam là chưa làm chủ công nghệ lõi và công nghệ chiến lược.

Ông Hoàng Anh Tú, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và công nghệ, Bộ KH&CN phát biểu
Trên cơ sở Quyết định số 1131/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược, gồm: 11 nhóm công nghệ và 35 nhóm sản phẩm, Bộ KH&CN đã xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Chương trình khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển sản phẩm công nghệ chiến lược ưu tiên triển khai ngay”. Ông Tú nhấn mạnh mục tiêu đến năm 2030 là làm chủ tối thiểu 60% công nghệ lõi, đạt tỷ lệ nội địa hóa từ 60%, đồng thời khẳng định doanh nghiệp và viện, trường đóng vai trò quyết định trong năng lực tiếp thu, phát triển và làm chủ công nghệ.
Cùng quan điểm, GS.TS Mai Thanh Phong, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, khẳng định mục đích của sự kiện là trao đổi kinh nghiệm quốc tế và trong nước, cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách trong việc xây dựng chương trình phát triển công nghệ chiến lược phù hợp. Với vai trò là trường đại học kỹ thuật hàng đầu, ông bày tỏ kỳ vọng vào những chương trình và chính sách cụ thể sắp được triển khai, đồng thời khẳng định sự sẵn sàng của đội ngũ nhà khoa học và giảng viên trong việc đồng hành cùng Nhà nước hiện thực hóa Nghị quyết số 57 về đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

GS.TS Mai Thanh Phong, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa - ĐHQG TP.HCM, phát biểu về định hướng phát triển nguồn lực và hạ tầng công nghệ chiến lược
Xây dựng hệ sinh thái công nghệ chiến lược: Kinh nghiệm quốc tế và mô hình kiến tạo tại Việt Nam
PGS. TS Lâm Quang Vinh, Trưởng Ban Khoa học và Công nghệ ĐHQG-HCM, phân tích kinh nghiệm quốc tế về phát triển hệ sinh thái công nghệ chiến lược, trong đó các trường đại học nghiên cứu đóng vai trò then chốt kết nối ba trụ cột: hạ tầng nghiên cứu - doanh nghiệp - cơ quan quản lý. Từ bài học của các quốc gia như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản và EU với các chương trình CHIPS Act và K-Strategic Tech, ông đề xuất ba nhóm giải pháp cho Việt Nam: (1) Phát triển cụm nghiên cứu công nghệ lõi tại các trường đại học, hình thành mạng lưới đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp; (2) Triển khai cơ chế sandbox để rút ngắn chu trình từ thử nghiệm đến thương mại hóa; (3) Đầu tư đồng bộ sản xuất - R&D - đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Ở góc độ doanh nghiệp công nghệ, ThS. Phan Văn Hán, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ dịch vụ toàn cầu, CT Group, trình bày chiến lược tăng trưởng kép Thiết bị bay không người lái (UAV) - một trong sáu nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược ưu tiên. Ông cho biết các cấu phần then chốt như chip điều khiển, mô-đun định danh từ xa, hệ thống truyền dữ liệu, laser đo khoảng cách hay động cơ điện đều là lĩnh vực Việt Nam cần chủ động phát triển nếu muốn hình thành chuỗi cung ứng UAV trong nước. UAV lưỡng dụng - phục vụ kinh tế - xã hội đồng thời đáp ứng yêu cầu an ninh - quốc phòng - cũng phù hợp với định hướng của Chương trình công nghệ chiến lược giai đoạn mới.
Theo ông Phan Đức Trung, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam, nhấn mạnh rằng blockchain đang trở thành lớp hạ tầng dữ liệu tin cậy trong nhiều nền kinh tế. Theo ông, các quốc gia đi đầu đều lấy chuẩn dữ liệu, định danh xuyên biên giới và khả năng truy xuất nguồn gốc làm nền móng để triển khai các dịch vụ số có tính liên thông. Ông Trung cho rằng, việc Việt Nam đưa “hạ tầng blockchain và các lớp ứng dụng” vào danh mục sản phẩm công nghệ chiến lược là bước đi phù hợp để xây dựng nền kinh tế số dựa trên dữ liệu xác thực, minh bạch và khả năng giám sát theo thời gian thực, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu phát triển thể chế đi kèm, bảo đảm thị trường vừa đổi mới vừa tuân thủ.
Blockchain, AI chủ quyền và sáu nhóm công nghệ chiến lược: Nền tảng cho giai đoạn tăng trưởng mới
Ông Trần Huyền Dinh, Chủ nhiệm Ủy ban Ứng dụng Fintech, Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam, cho biết cấu trúc năm lớp của mô hình token hoá tài sản thực (RWA) theo Chương trình Công nghệ Chiến lược Quốc gia, bao gồm: (1) Blockchain lớp nền có khả năng mở rộng; (2) Hạ tầng dữ liệu khả dụng phục vụ các ứng dụng công; (3) Nền tảng xác thực dữ liệu và truy xuất nguồn gốc quốc gia; (4) Nền tảng token hóa tài sản thực; (5) Hệ thống phân tích dữ liệu on-chain phục vụ giám sát giao dịch.

Ông Trần Huyền Dinh, Chủ nhiệm Ủy ban Ứng dụng Fintech (VBA), chia sẻ về RWA tại hội thảo
Ông Dinh dẫn chứng báo cáo Boston Consulting Group, dự báo quy mô thị trường RWA toàn cầu có thể đạt 19.000 tỷ USD vào năm 2033, tương đương hơn 10% GDP toàn cầu, trong khi các định chế tài chính như BlackRock, J.P. Morgan, HSBC hay nền tảng D7 của Deutsche Börse đã phát hành tổng giá trị RWA trên 35 tỷ USD tính đến năm 2025. Ông cho rằng những mô hình vận hành tuân thủ cao như trái phiếu xanh phát hành trên nền tảng Orion tại Hồng Kông hay quỹ Kho bạc Mỹ token hóa của OpenEden cho thấy RWA có thể tích hợp hiệu quả với hệ thống tài chính truyền thống nếu có bộ chuẩn dữ liệu - định danh - kiểm toán minh bạch.
Theo ông, việc Việt Nam đưa blockchain vào nhóm sản phẩm chiến lược không chỉ tạo ra lớp hạ tầng dữ liệu tin cậy mà còn mở cơ hội hình thành thị trường tài sản số tuân thủ, phù hợp yêu cầu giám sát theo Nghị quyết 05/2025/NQ-CP về triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hoá và định hướng tại Luật Công nghiệp Công nghệ số.
Ở lĩnh vực AI, TS. Nguyễn Văn Yên, Thành viên HĐTV VNPT, nhấn mạnh yêu cầu xây dựng “AI chủ quyền”, trong đó mô hình ngôn ngữ lớn tiếng Việt, hạ tầng HPC, trung tâm thử nghiệm quốc gia và tiêu chuẩn an toàn dữ liệu là trụ cột cốt lõi. Theo ông, AI chủ quyền sẽ giảm phụ thuộc nền tảng ngoại, bảo đảm yêu cầu an ninh dữ liệu và tạo nền móng cho ngành công nghiệp số.
Đại diện doanh nghiệp công nghệ trong lĩnh vực ứng dụng, ông Nguyễn Bá Đạt, Giám đốc sản phẩm Zalo AI, giới thiệu Trợ lý Zalo Công dân số - nền tảng AI bản địa hóa ứng dụng dữ liệu chính thống và tích hợp trực tiếp với hệ sinh thái Zalo. Sau hai tháng triển khai, nền tảng này đã ghi nhận hơn 300.000 người dùng, cho thấy hiệu quả của mô hình AI theo ngành trong bối cảnh nhu cầu dịch vụ công trực tuyến tăng mạnh.

Toàn cảnh Hội thảo “Chương trình quốc gia phát triển công nghệ chiến lược - Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam”
Về định hướng triển khai, ông Hoàng Anh Tú nhấn mạnh sáu nhóm công nghệ chiến lược ưu tiên triển khai ngay gồm mô hình ngôn ngữ lớn và trợ lý ảo tiếng Việt, AI camera xử lý tại biên, robot di động tự hành, thiết bị mạng 5G-5G Advanced, hạ tầng blockchain và các lớp ứng dụng, và UAV. Đây là các nhóm công nghệ có tính nền tảng, định hình năng lực cạnh tranh quốc gia và khả năng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Việc làm chủ công nghệ lõi đang trở thành cuộc đua quyết định vị thế của các quốc gia trong trật tự kinh tế toàn cầu mới. Những quốc gia nắm giữ công nghệ nền tảng không chỉ tạo ra giá trị gia tăng cao mà còn kiểm soát chuỗi giá trị, định hình tiêu chuẩn và bảo đảm an ninh kinh tế - quốc phòng.
Với Việt Nam, việc chuyển từ tiếp nhận công nghệ sang làm chủ công nghệ lõi, từ tham gia chuỗi giá trị sang định vị vị thế trong các ngành công nghiệp then chốt không chỉ là tham vọng phát triển mà còn là yêu cầu tất yếu để bảo đảm tự chủ và phát triển bền vững.
Sự đồng thuận cao từ hệ sinh thái Nhà nước - viện, trường - doanh nghiệp trong việc hình thành các ngành công nghiệp chiến lược như AI, blockchain, UAV, 5G và các công nghệ nền tảng khác đang mở ra triển vọng để Việt Nam không chỉ thu hẹp khoảng cách công nghệ mà còn có thể tạo ra những bứt phá trong một số lĩnh vực then chốt, góp phần hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.