1. Không phải là thơ/ mà là xương máu/ không những lời hoa mỹ/ chỉ tiếng thở sâu/ hoa có mà không/ không mà có/ biến tấu thành vệt máu khô/ đọng giữa đất trời/ vô ưu nghe gió thổi.
Có thể xem đây là "tuyên ngôn thơ” của tập trường ca Hoa của nước (NXB Hồng Đức-2025) của nhà văn Trầm Hương. Hoàn toàn không chủ quan khi chúng ta nhận định đây là tập thơ trước nhất lấy cảm hứng từ cỏ cây, hoa lá nhằm khắc họa số phận của người mẹ, người chị đã đi qua kháng chiến. Khi thi hào Nguyễn Du thốt lên: "Đau đớn thay phận đàn bà” thì thân phận ấy trong chiến tranh lại càng khốc liệt bội phần. Nhà văn Trầm Hương đã có những câu thơ khái quát: trái tim mềm yếu/ chỉ có niềm an ủi/ lấy chiến thắng dân tộc làm chiến công của chính mình/ bao điều không thể nói ra/ bao điều chôn chặt/ bao hy sinh tổn thất/ bao cuộc đời thầm lặng/ an nhiên chấp nhận/ không có mình trong vòng nguyệt quế/ "hòa bình là tốt rồi/ việc gì qua cứ để nó trôi qua".
Các mẹ, các chị khiêm tốn bảo "cứ để nó trôi qua", xem như sự hy sinh, cống hiến đời mình là một lẽ tất nhiên: "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh", chứ đâu phải vì sau này sẽ được tuyên dương nọ kia. Suy nghĩ này càng cho chúng ta thấy được phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ thời đại Hồ Chí Minh đã tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng của Bà Trưng, Bà Triệu... Vẫn biết các mẹ, các chị khiêm tốn nói thế nhưng chúng ta không thể không ghi chép lại: sâu thẳm nỗi buồn/ dìu dịu yêu thương/ những bông hoa không cam lòng/ bứt phá đi tìm sự sống. Từ suy nghĩ này của nhà văn Trầm Hương, người yêu thơ có được trường ca sử thi Hoa của nước.
2. Mỗi nhà văn khi thai nghén một tác phẩm nào đó ắt có lý do thôi thúc từ nội tâm, từ giấc mơ, từ ý thức buộc họ phải ngồi vào bàn viết, phải đối diện với chính họ để có những trang viết mới. Với Hoa của nước, điều gì đã thôi thúc Trầm Hương?
Chị bộc bạch chân thành: "Tôi đi dọc miền đất nước, tìm lại hình bóng các chị. Có biết bao người con gái ngã xuống không để lại cho đời sau một bức hình, một kỷ vật nhưng xương máu các chị đổ xuống cho Tổ quốc là điều có thật. Vẻ đẹp thanh xuân của các chị tan vào lòng đất. Nơi các chị nằm xuống có lẽ những đóa hoa đã mọc lên, xóa dần vết tích chiến tranh ác liệt. Dường như linh hồn các chị đang hóa thân vào những bông hoa tôi gặp trên những nẻo đường. Vẻ đẹp của những người con gái chết trẻ luôn ám ảnh tôi. Tại sao những người con gái rất trẻ, rất đẹp ấy bị cắt ra từng mảnh, bị bom vùi, bị ném xuống dòng sông, bị trói vào xích xiềng tù ngục, bị thủ tiêu, bị quăng vào lửa đỏ”.
Câu chữ trong tự sự này vừa lắng đọng lại vừa dữ dội, đau đớn, vậy thể hiện thế nào để trang viết đạt đến sự đồng cảm trong công chúng, nhất là ở thế hệ trẻ - thế hệ Gen Z sinh ra và lớn lên sau ngày hòa bình, thống nhất? Nhà văn Trầm Hương tự nhủ: Những loài hoa gợi nhớ những số phận/ Những số phận con người gợi nhớ những loài hoa.
Có thể nói, đây chính là "chìa khóa" để người đọc mở ra cuộc đời của những con người bình dị như cỏ cây mà oanh liệt như lửa; hiền lành như hoa lá mà bền lòng như nước. Hai câu thơ này là một lần nữa xác tín lời dạy của ông bà mình thể hiện qua câu tục ngữ: "Người ta là hoa đất" - theo giải thích của Đại từ điển tiếng Việt (1999): "Con người là tinh túy của trời đất". Mà không chỉ người Việt, hầu như trên trái đất này, sắc tộc nào cũng cho rằng phụ nữ là hiện thân của bông hoa; nói cách khác bông hoa chính là biểu tượng về phụ nữ. Không dừng lại đó, qua trường ca này, nhà văn Trầm Hương xác định bông hoa cụ thể đó/ người phụ nữ cụ thể đó chính là "hoa của nước". Nước ở đây vừa là ngọn nguồn của sự sống nhưng cũng còn là khái niệm về non sông đất nước.
Nhà văn Trầm Hương đã có phát hiện độc đáo, sáng tạo giàu hình tượng nghệ thuật liên quan đến các loài hoa, cây cỏ khi tìm cảm hứng từ các nữ liệt sĩ như: Nguyễn Việt Hồng, Hồ Thị Kỷ, Hà Thị Anh Đằng, Đặng Thùy Trâm, Trần Thị Sáu (Mười Thoa), Mai Thị Nương, Nguyễn Thị Bông, Phạm Thị Thu Vân, Huỳnh Lan Khanh, Phan Thị Ràng (Tư Phùng), Lê Đoan, Lê Thị Hồng, Võ Thị Hồng Láng, Dương Thị Huê, Nguyễn Thị Rí (Tám A), Hồ Thị Nhàn, Nhất Chi Mai, Nguyễn Thị Ngọc Mai, Huỳnh Thị Chấu, Nguyễn Thị Chinh...; những Bà mẹ VN Anh hùng như Phạm Thị Diệu...; những Anh hùng LLVT như Lê Thị Pha, Mỹ Nhung...
Trong chương 1 "Hoa thủy sinh", ta gặp hoa cồn dù "mong manh", thủy tuyết "dẫu chỉ một đốm trắng báo hiệu ban mai", bần "chứng kiến bao thăng trầm lịch sử", muống biển "bỏng rát nỗi niềm", tràm "kiên trì với bom đạn thuốc khai hoang", là năn, lác, nhút, sen, súng, bèo, lục bình... Và tất cả hiện lên vẻ đẹp bi tráng: thanh xuân và xương máu/ chiến tranh và phụ nữ thương những người con gái/ hoa biến hình thành gương.
Trong chương 2 "Hoa tôi gặp trên đường thiên lý”, đó là hoa dây chiều, đào, mai, chuối, tre, dừa, vú sữa, cúc, thị... Cảm hứng thơ của Trầm Hương dạt dào cảm xúc, nhiều câu thơ thật ấn tượng như: thế kỷ hai mươi có người con gái/ gom tre khắp thế gian về thắp sáng mảng trời xanh.
Nếu chương 1, chương 2 là tưởng niệm, chiêm nghiệm về lẽ sống cao cả, hy sinh vì nghĩa lớn, vì độc lập thống nhất thì chương 3 là "Hoa thời hậu chiến". Mạch cảm hứng thơ của cả ba chương vẫn một dòng chảy nhất quán, hài hòa nhằm tạo nên một cấu trúc sử thi hoàn chỉnh. Sâu lắng trong tâm trí của người yêu thơ vẫn còn là tình cảm của một tấm lòng mà nhà văn Trầm Hương đã tâm tình rất đỗi chân thật: cảm ơn những bài học cuộc đời/ từ cỏ cây hoa lá nếu được sống/ nguyện cứ đi và viết/ nếu được chết/ xin làm hạt phù sa/ đi theo hoa cho màu hoa tươi thắm mãi.
3. Với Hoa của nước một lần nữa, nhà văn Trầm Hương đã khẳng định được thế mạnh: tìm lấy cảm hứng từ những người phụ nữ bình dị, dân dã đã có nhiều đóng góp thầm lặng, hy sinh xương máu trong hành trình toàn quân, toàn dân đánh giặc cứu nước. Là người phụ nữ cầm bút, vì thế giữa chị và "nhân vật" đã có mối đồng cảm sâu sắc, "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu", do đó trang viết của chị phản ánh sâu sắc chất liệu của cuộc đời thật, của những tấm gương phụ nữ Việt Nam oanh liệt và hùng tráng.