LÝ DO TỪ “TRÊN TRỜI RƠI XUỐNG”
Theo lời trình bày của bị đơn là chị Nguyễn Thị Ngọc Hà (SN 1967, ngụ X. Phong Phú, H. Bình Chánh, TPHCM), qua môi giới của chị Bùi Vũ Thụy Đỗ Quyên (SN 1981, ngụ P.6, TP.Bến Tre), chị Hà có nhận chuyển nhượng của hai vợ chồng ông Trần Văn Đà (SN 1963) và bà Nguyễn Thị Thu Thủy (SN 1976, cùng ngụ số nhà 460C, KP3. P.Phú Khương, TP.Bến Tre) thửa đất số 382, diện tích 1.073m2 (làm tròn), tọa lạc tại P.Phú Khương (TP.Bến Tre), với số tiền 9,2 tỷ đồng.
Để giảm thuế, hai bên đồng ý chỉ ghi tiền chuyển nhượng là một tỷ đồng, được công chứng tại Văn phòng công chứng (VPCC) Tín Hữu ngày 9-8-2018. Sau đó, chị Hà chuyển khoản qua Vietinbank và đưa tiền mặt cho người môi giới Quyên tổng cộng là 9,5 tỷ đồng. Trong đó, Quyên phải giao tiền cho bên bán là 9,2 tỷ đồng và được hưởng chênh lệch là 300 triệu đồng.
Miếng đất đang bị tranh chấp
Sau đó, chị Hà có cho vợ chồng ông Đà - bà Thủy thuê lại khu đất này với giá 15 triệu đồng/tháng, thời hạn 6 tháng, có hợp đồng (HĐ) nhưng không công chứng. Ngày 7-9-2018, chị Hà được Sở Tài nguyên và Môi trường Bến Tre cấp quyền sử dụng đất.
Ngày 5-11-2018, chị Hà đã chuyển nhượng cho anh Võ Thành Sử (SN 1986, ngụ P.Tân Định, Q.1, TPHCM) và anh Sử đã được sang tên, bán lại cho chị Ting Xuân Hà. Tuy nhiên, do vẫn còn thời hạn thuê đất của vợ chồng ông Đà - bà Thủy nên chị Hà chưa giao đất, hết hạn sẽ giao cho chủ sở hữu mới. Hết hạn 6 tháng, vợ chồng ông Đà - bà Thủy vẫn không giao tài sản, vì lí do “không có nhận số tiền nào từ việc bán miếng đất từ người mua là... chị Hà”.
Sau đó, vợ chồng ông Đà - bà Thủy đã kiện chị Hà ra tòa. Tại bản án sơ thẩm số 85 (ngày 28-11-2019) của TAND TP.Bến Tre, HĐXX đã tuyên hủy HĐ chuyển nhượng ngày 9-8-2018 giữa vợ chồng ông Đà - bà Thủy với chị Hà. Hủy luôn HĐ chuyển nhượng ngày 5-11-2018 giữa chị Hà với ông Sử.
Do bản án sơ thẩm bị kháng cáo, nên TAND tỉnh Bến Tre đã mở phiên phúc thẩm ngày 5-5-2020. Theo bản án số 111 của tòa phúc thẩm, bản án sơ thẩm vẫn được giữ nguyên dù kiểm sát viên Nguyễn Thị Thúy Kiều, đại diện Viện KSND tỉnh Bến Tre, giữ quyền công tố tại phiên tòa đã nêu quan điểm rất rõ ràng “bản án sơ thẩm tuyên hủy HĐ nhưng không giải quyết hậu quả của HĐ vô hiệu là giải quyết vụ án chưa toàn diện. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3, Điều 308, Bộ luật Tố tụng dân sự, hủy án sơ thẩm”.
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN CHƯA TOÀN DIỆN
Theo bị đơn Hà, kết luận trong bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Bến Tre không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án và vi phạm thủ tục tố tụng, gây thiệt thòi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tòa phúc thẩm hủy HĐ chuyển nhượng quyền sử dụng nhưng không chấp nhận giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, dù người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Võ Thành Sử (mua lại đất từ chị Hà) có yêu cầu tại tòa sơ thẩm lẫn phúc thẩm.
Thay vì căn cứ vào HĐ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập hợp pháp tại VPCC, Tòa phúc thẩm lại căn cứ vào tài liệu chứng cứ sai sự thật. Đó là tờ giấy viết tay để xác định các chủ thể mua bán trong HĐ chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tiếp cận giấy này tại TAND tỉnh Bến Tre, chúng tôi phát hiện nhiều mâu thuẫn.
Về thời điểm lập tờ giấy tay, tại phiên tòa phúc thẩm, ông Đà - bà Thủy, chị Quyên (môi giới) và hai người làm chứng đều thừa nhận tờ giấy viết tay được lập tại nhà ông Đà - bà Thủy và được lập sau khi ông Đà - bà Thủy lập HĐ chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số 382, tờ bản đồ số 14 cho chị Hà tại VPCC Tín Hữu (ngày 9-8-2018). Khi lập tờ giấy viết tay, chị Hà không có mặt và không được biết về tờ giấy viết tay này.
Những nội dung trong tờ giấy tay (có sự xác nhận của hai người làm chứng) là có sự mâu thuẫn với các tài liệu trong vụ án. Cả ông Đà - bà Thủy, chị Quyên đều khẳng định (trong các bản tự khai và tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm), thời điểm lập giấy tay, bà Quyên đưa cho ông Đà - bà Thủy 500 triệu đồng. Tuy nhiên, nội dung giao nhận tiền trong tờ giấy tay là chị Quyên đã chuyển cho vợ chồng ông Đà - bà Thủy hai tỷ đồng và hai người làm chứng đều làm chứng về việc giao nhận tiền này.
Hai người làm chứng trong tờ giấy tay là người thân thích của ông Đà - bà Thủy, là chị của bà Thủy. Do đó, không có sự đảm bảo về sự khách quan của việc làm chứng. Lời khai của đương sự và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau, tuy nhiên Tòa phúc thẩm không quyết định cách ly đương sự với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng là vi phạm Điều 242, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Tòa án cấp phúc thẩm dù đã được đương sự yêu cầu, nhưng không triệu tập người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Ting Xuân Hà, người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Võ Thành Sử.
Tòa phúc thẩm không công nhận HĐ thuê nhà được lập giữa chị Hà và ông Đà - bà Thủy mà không căn cứ vào bất kỳ quy định nào của pháp luật. Rõ ràng, đây là giao dịch được xác lập theo ý chí của các bên và được xác lập sau khi ông Đà - bà Thủy đã lập HĐ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị Hà tại văn phòng công chứng nên phải có hiệu lực ràng buộc giữa các bên.