Bầu cử Mỹ:

Các chính sách do ông Trump đề xuất mang rủi ro lạm phát cao hơn

Thứ Bảy, 26/10/2024 22:35

|

(CATP) Đó là nhận định của ông Heng Koon How - Trưởng bộ phận Chiến lược thị trường, Khối Nghiên cứu thị trường và kinh tế toàn cầu của Ngân hàng UOB (Singapore). Cũng theo ông này, ngược lại, những đề xuất của Phó tổng thống Kamala Harris cho thấy mục tiêu rõ ràng hơn, dù cả hai ứng viên cần giải quyết vấn đề nợ lâu dài của nước Mỹ.

Nguy cơ tiềm ẩn từ chính sách kết hợp của Trump

Có 3 rủi ro chính sẽ tác động đến nền kinh tế và thị trường Đông Nam Á (ĐNA) trong phần còn lại của năm 2024 và đến năm 2025. Đầu tiên, xung đột ngày càng lan rộng ở Trung Đông có thể làm gia tăng hơn nữa rủi ro địa chính trị và đẩy giá năng lượng lên cao. Điều không chắc chắn thứ 2 là liệu các biện pháp kích thích trên diện rộng của Trung Quốc (TQ) có đủ để thúc đẩy nền kinh tế của nước này? Tuy nhiên, sự bất ổn thứ 3 có lẽ đem lại tác động lớn nhất: Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào ngày 05/11/2024, mà kết quả có thể tác động đáng kể đến nền kinh tế nước này và theo đó là chính sách tiền tệ, lãi suất lẫn đồng đôla của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Theo đó, các nền kinh tế toàn thế giới - bao gồm cả ĐNA - sẽ bị ảnh hưởng.

Những cuộc thăm dò ý kiến cho thấy ứng viên đảng Dân chủ Kamala Harris có lợi thế ít hơn về số phiếu phổ thông so với ứng viên đảng Cộng hòa Donald Trump. Tuy nhiên, do hệ thống đại cử tri đoàn của Mỹ, kết quả sẽ được xác định bởi các tiểu bang dao động - nơi cả hai ứng viên đều có số phiếu sát sao, do vậy kết quả cuộc bầu cử vẫn khó thể dự đoán.

Nhiều thảo luận đã được thực hiện về khả năng gây ra lạm phát tiềm ẩn từ những chính sách kết hợp mà Trump mong muốn. Quá trình vận động tranh cử, cựu tổng thống này đã ủng hộ hàng loạt biện pháp thuế quan leo thang. Những mức thuế dao động từ việc tăng đáng kể thuế quan thương mại đối với TQ lên 60%, đến mức thuế trừng phạt 200% đối với xe nhập khẩu từ Mexico. Những mức thuế trên sẽ được cộng vào mức thuế chung mà ông đề xuất là 10% đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ.

Ông Heng Koon How, Trưởng bộ phận Chiến lược - Khối Nghiên cứu thị trường và kinh tế toàn cầu của Ngân hàng UOB (Singapore)

Ông Trump cũng gợi ý rằng thuế quan thương mại có thể được sử dụng để chi trả cho việc cắt giảm thuế. Ông muốn các công ty sản xuất hàng hóa tại Mỹ sẽ trả mức thuế ưu đãi là 15%, giảm từ 21% hiện tại. Mặc dù vậy, điều này có thể gây ra lạm phát, vì việc gia tăng thuế quan thương mại như vậy sẽ dẫn đến giá hàng nhập khẩu cao hơn.

Ông Trump cũng muốn cho hồi hương và trục xuất những người nhập cư bất hợp pháp - ý tưởng có thể thắt chặt thị trường lao động và đẩy tiền lương lên cao, tạo áp lực gây ra lạm phát khác.

Theo các chuyên gia kinh tế, những chính sách mà cựu tổng thống đề xuất có thể kéo dài chu kỳ tăng trưởng mạnh hơn dự kiến của nền kinh tế Mỹ, nhưng ngay cả khi chỉ được thực hiện một phần cũng có thể gây ra lạm phát cho nền kinh tế. Mức lạm phát cao hơn này có thể dẫn đến lộ trình cắt giảm lãi suất ít hơn từ Fed so với dự đoán của thị trường.

Dù các chuyên gia kinh tế kỳ vọng lãi suất của Quỹ liên bang sẽ giảm từ 5% hiện tại xuống còn 3,5% vào cuối năm sau, nhưng dự báo này có thể còn nhiều bất ổn nếu ông Trump trở lại nắm quyền.

Chính sách kinh tế do bà Harris đề xuất ít cực đoan hơn

Ngược lại với Trump, ứng viên đảng Dân chủ Kamala Harris cho đến nay đã phác họa các chính sách của mình một cách khái quát. Về thương mại, bà có khả năng sẽ tiếp tục cách tiếp cận "sân nhỏ, rào cao" của chính quyền Biden, áp dụng mức thuế quan có mục tiêu cụ thể hơn cho các ngành công nghiệp cụ thể với cách tiếp cận ít đối đầu hơn so với cách do ông Trump đề xuất.

Về chính sách thuế, phó tổng thống đề xuất tăng thuế thu nhập với những người có thu nhập cao nhất, tăng thuế với nhóm có mức tăng vốn cao nhất và tăng thuế với các tập đoàn, trong khi việc giảm thuế dành riêng cho những ngành chiến lược cùng các ngành công nghiệp sạch.

Bà Harris muốn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình nghèo ứng phó với chi phí sinh hoạt gia tăng. Nói chung, các chính sách kinh tế mà bà đề xuất có mục tiêu cụ thể, ít cực đoan hơn so với ông Trump - và có khả năng ít gây ra lạm phát cho nền kinh tế Mỹ.

Không giống đề xuất của Trump về việc tổng thống phải giám sát nhiều hơn đối với các quyết định về chính sách tiền tệ, bà Harris ủng hộ sự độc lập đang diễn ra của Fed và cũng không đề xuất bất kỳ biện pháp nào để đơn phương phá giá đồng đôla Mỹ - đề xuất mà ông Trump đã đưa ra nhiều lần.

Cần tập trung vào kiềm chế gia tăng nợ công

Điều đáng thất vọng là cả hai ứng viên tổng thống đều không tập trung vào sự suy giảm ngày càng nhiều về triển vọng tài chính của Mỹ. Nợ công chưa thanh toán của quốc gia đã tăng vọt từ dưới 20 nghìn tỷ đôla trước đại dịch Covid-19 vào năm 2020, lên mức hiện tại là khoảng 30 nghìn tỷ đôla.

Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ đã dự báo bước tăng vọt hơn nữa trong nợ công chưa thanh toán có thể vượt quá 50 nghìn tỷ đôla hoặc 120% tổng sản phẩm quốc nội của nước này vào năm 2034. Nợ tăng sẽ tác động tiêu cực rộng rãi đến nền kinh tế Mỹ. Với mức nợ cao hơn, tăng trưởng kinh tế khả năng sẽ chậm lại vì ngày càng nhiều doanh thu do Kho bạc Mỹ thu về sẽ được sử dụng để trả lãi, thay vì phục vụ nhu cầu dài hạn của nền kinh tế Mỹ.

Các cơ quan xếp hạng tín dụng gợi ý việc hạ xếp hạng tín dụng có chủ quyền của Mỹ khả năng xảy ra trong trung hạn nếu tình trạng nợ tài chính xấu đi không được kiểm soát.

Bất kể ai thắng cử, tổng thống tiếp theo cần phải nỗ lực nhiều hơn để kiềm chế sự gia tăng liên tục của nợ công Mỹ.

Điều này có ý nghĩa thế nào với Đông Nam Á?

Đối với các nền kinh tế trong khu vực (KV), chính sách của Trump có thể dẫn đến kịch bản lạm phát mới, điều đó khả năng góp phần làm cho lãi suất khó điều chỉnh hơn đồng thời củng cố sức mạnh của đồng đôla Mỹ.

Các chính sách đối ngoại và thương mại mang tính đối đầu với TQ của Trump cũng có thể làm tăng rủi ro địa chính trị trong toàn KV, kéo theo đó là kìm hãm sự phục hồi của tăng trưởng lẫn dòng chảy thương mại đối với TQ và ĐNA. Điều này có thể khiến các chính quyền KV và ngân hàng trung ương phải hiệu chỉnh lại chính sách tài khóa, tiền tệ tương ứng của họ vào năm 2025.

Hiện tăng trưởng kinh tế và triển vọng thương mại của ĐNA vẫn tươi sáng nhờ sự phục hồi của chi tiêu bán lẻ và xuất khẩu hàng điện tử trên toàn KV. Hầu hết các quốc gia trong KV dự đoán sẽ chứng kiến tăng trưởng GDP và sức mạnh tiền tệ cao hơn vào năm 2025.

Về lâu dài, những xu hướng lớn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế KV như dân số trẻ, tầng lớp trung lưu đang phát triển, hoạt động thương mại xuyên biên giới và hội nhập sâu rộng hơn trong các ngành công nghiệp KV sẽ tạo tiền đề cho tăng trưởng mạnh mẽ hơn.

Những năm tới, dự báo dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ĐNA sẽ tăng thêm 38%, lên 312 tỷ đôla Mỹ vào năm 2027 và lên 373 tỷ đôla Mỹ vào năm 2030.

Trong bối cảnh bất ổn sắp tới đối với thương mại toàn cầu phát sinh từ cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, điều quan trọng là phải lưu ý đến mối quan hệ thương mại mạnh mẽ và sự hỗ trợ được thiết lập bởi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Quan hệ đối tác kinh tế toàn diện KV neo giữ các quốc gia ASEAN trong hiệp định thương mại mạnh mẽ với TQ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand. ASEAN cũng dự kiến sẽ làm mới hiệp định thương mại tự do lâu đời của mình với TQ.

Việt Nam: GDP quý III tăng mạnh bất chấp bão Yagi

Triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ của Việt Nam (VN) vẫn được giữ vững cho đến nay. GDP thực tế của VN tăng trưởng mạnh hơn dự kiến trong quý III, vọt lên 7,4% - tốc độ nhanh nhất kể từ quý III/2022.

Với hiệu suất quý III mạnh mẽ đáng ngạc nhiên bất chấp tác động của bão Yagi, kỳ vọng tăng trưởng cả năm của VN sẽ đạt 6,4% - tăng so với dự báo trước đó là 5,9%.

Ngân hàng Nhà nước VN có thể sẽ áp dụng cách tiếp cận trọng tâm hơn để hỗ trợ cá nhân và doanh nghiệp, thay vì triển khai 1 công cụ rộng rãi trên toàn quốc như cắt giảm lãi suất.

Do đó, theo dự đoán Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức hiện tại là 4,5% và trọng tâm là tạo điều kiện cho tăng trưởng cho vay. Tương tự như các loại tiền tệ khác trong khu vực, đồng VN dự kiến sẽ tiếp tục tăng giá ổn định trong những tháng tới so với đôla Mỹ.

Bất chấp triển vọng không chắc chắn từ cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, ĐNA sẽ vẫn là KV ổn định cho tăng trưởng kinh tế và các cơ hội thương mại mạnh mẽ.

Bình luận (0)

Lên đầu trang