Vì vậy sau khi ra đời chưa được bao lâu, Đảng đã phát động được một phong trào sôi nổi của công nông khắp cả nước những năm 1930-1931, mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tiếp nối theo sau đó, là các cao trào cách mạng xuất hiện trong thời điểm lịch sử 1936 - 1939, 1939 - 1945. Đó là những cột mốc rất quan trọng để tiến tới Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngày 09/3/1945, sau khi phát xít Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, Đảng ta đã dấy lên cao trào kháng Nhật cứu nước, chuẩn bị tổng khởi nghĩa cướp chính quyền. Trong cuộc Hội Nghị Trung ương lần thứ 8 (Khóa I) họp ở Pác Bó từ ngày 10-19/5/1941 do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì, căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta, dựa vào kinh nghiệm của Xô Viết Nghệ Tĩnh và các cuộc khởi ở Bắc Sơn, Nam Kỳ, Hội nghị cho rằng khi thời cơ đến thì với lực lượng sẵn có, ta có thể xúc tiến khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Cùng với nghị quyết Trung ương lần thứ sáu năm 1939, hội nghị Trung ương lần thứ 8 năm 1941 đã có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nghị quyết của hội nghị đã góp phần bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng ta.

Ngày 19/8/1945, sau cuộc mít-tinh tại Quảng trường Nhà hát lớn, quần chúng nhân dân Thủ đô đã đánh chiếm Bắc Bộ phủ, cơ quan đầu não của chính quyền tay sai Pháp ở Bắc Bộ. (Ảnh tư liệu )
Sau khi Hội nghị Trung ương lần thứ 8 kết thúc, Đảng ta bắt tay ngay vào việc thực hiện nghị quyết, xây dựng tổ chức Việt Minh, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Điều đặc biệt là trong thời gian 1941-1942 ở Cao Bằng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều tác phẩm như: Lịch sử nước ta, Địa lý Việt Nam, Chiến thuật du kích, Cách huấn luyện cán bộ quân sự… Những tác phẩm đó vừa giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết chiến đấu, chịu đựng gian khổ hy sinh cho đảng viên và quần chúng cách mạng, vừa trình bày kinh nghiệm các nước và bước đầu nêu lên một số vấn đề về đường lối quân sự chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Cuối năm 1941, Trung ương quyết định thành lập đội tự vệ vũ trang Cao Bằng.
Trong những tháng năm này, đồng bào ta trong khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng ( Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn) đã sốt ruột gửi thư cho báo Việt Nam độc lập – do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo trực tiếp và làm Tổng biên tập – đề nghị trả lời câu hỏi này: “Bao giờ khởi nghĩa?”. Báo Việt Nam độc lập giải đáp rõ ràng rằng: “Muốn khởi nghĩa cần phải có hai điều. Điều thứ 1 là: Bao giờ bọn Tây Nhật đã bối rối yếu đuối, không đủ sức mà trị dân ta nữa. Điều thứ hai là: Toàn quốc đồng bào ta ai ai cũng quyết lòng đánh Tây đánh Nhật. Ai cũng hăng hái hy sinh cho Tổ quốc non sông. Ai cũng đồng tâm hiệp lực.
Nay điều thứ 1 đủ rồi, nhưng điều thứ 2 còn thiếu. Chẳng nói đâu xa, chỉ ở tỉnh Cao Bằng ta, thử hỏi trong 9 vạn đồng bào ta đã được mấy vạn người có tổ chức. Còn ít lắm! Vậy nên chúng ta muốn mau khởi nghĩa thì mỗi một cán bộ, mỗi một hội viên đều phải hết lòng, hết sức tổ chức tuyên truyền làm cho đoàn thể mau phát triển. Đoàn thể phát triển chừng nào, tức là ngày khởi nghĩa mau chừng ấy.
Muốn mau khởi nghĩa, trước hết cần phải có 3 điều:
- Điều thứ nhất … tổ chức
- Điều thứ hai … tổ chức
- Điều thứ ba … tổ chức
Làm xong 3 điều đó, chúng ta sẽ khởi nghĩa và nhất định thắng lợi” (1).
Những sự kiện trên đây đã phản ánh quan điểm đúng đắn của Đảng ta về khởi nghĩa vũ trang. Đó là quan điểm toàn dân khởi nghĩa đã được thấu suốt trong quá trình chuẩn bị và tiến hành tổng khởi nghĩa. Từ cuối năm 1941 đến 1942, các hội công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc… đã được thành lập ở nhiều địa phương.
Trong việc xây dựng và tổ chức lực lượng cách mạng chuẩn bị khởi nghĩa, Đảng đặc biệt coi trọng tổ chức và xây dựng căn cứ địa. Trong thời gian này căn cứ bí mật của Trung ương Đảng đã được xây dựng ở vùng ven đô Hà Nội và tại một số địa phương tiếp giáp với Hà Nội (Hà Đông, Bắc Ninh, Bắc Giang). Phát triển lên một bước cao hơn, chúng ta có các an toàn khu, khu căn cứ địa du kích ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, là những khu vực có chỗ đóng quân và hoạt động của các đội du kích.
Tháng 02/1943, Hồng quân Liên Xô giành được thắng lợi to lớn ở Mặt trận Xta-lin-grát, 33.000 quân tinh nhuệ của phát xít Đức bị tiêu diệt. Chiến thắng Xta-lin-grát đánh dấu bước ngoặt căn bản của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên xô và của các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đây là một luồng gió mới thổi mạnh vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng nước ta.
Thời cơ giành thắng lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam đang tới gần. Tình hình quốc tế vô cùng thuận lợi ấy đòi hỏi Đảng phải có những quyết sách cụ thể để chớp lấy thời cơ, gấp rút đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa để giành chính quyền trong cả nước. Từ ngày 25 -28/02/1943, Ban Thường vụ chuẩn Trung ương Đảng đã họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) vạch ra kế hoạch cụ thể về chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Nghị quyết hội nghị Ban Thường vụ Trung ương ở Võng La đã cụ thể hóa và phát triển thêm nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 họp ở Pác Bó năm 1941, tạo điều kiện đưa cách mạng cả nước tiến lên cao trào. Thực hiện nghị quyết lịch sử này, hầu hết các đảng bộ tại vùng đồng bằng Bắc Bộ đã lãnh đạo đẩy mạnh việc xây dựng các đoàn thể Việt Minh.
Ở miền Nam, qua hai năm chống khủng bố ác liệt của địch sau khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bắt đầu từ năm 1943 phong trào cách mạng được dần dần hồi phục. Hệ thống tổ chức của Xứ ủy Nam Kỳ tái lại ở nhiều nơi. Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 năm 1941 đã được phổ biến tới một số địa phương. Cùng với việc bước đầu phục hồi các cơ sở công hội, tổ chức Việt Minh được xây dựng ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh và những nơi khác.
Để đẩy mạnh hơn nữa việc chuẩn bị khởi nghĩa, ngày 07/05/1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa. Chỉ thị nhận định thời cơ hết sức thuận lợi, cho nhân dân ta giành quyền độc lập dân tộc. Song thời cơ không phải tự nó đến mà do ta chuẩn bị nó và thúc đẩy nó. Vì vậy phải đẩy mạnh việc tổ chức các đội tự vệ và du kích. Đến cuối năm 1944 không khí cách mạng đã sôi sục ở nhiều địa phương.
Tháng 10/1944, đồng chí Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào và thông báo chủ trương của Đảng về việc triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc. Trong thư, Người đã nêu lên lời tiên đoán cách mạng tài tình: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa, Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh (2).
Ngay trong đêm 09/03/1945, giữa lúc Nhật nổ súng đánh Pháp, hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Hội nghị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cuộc Tổng khởi nghĩa.
Ngày 15/04/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập hội nghị quân sự cách mạng ở Bắc Kỳ. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ gấp rút phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa chống Nhật để kịp thời chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Ngày 16/04/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam. Đầu tháng 5/1945, đồng chí Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân.
Tháng 4 và tháng 5/1945 là thời gian mà cuộc chiến tranh thế giới đang trong giai đoạn kết thúc. Ngày 16/4/1945, quân đội Xô Viết mở chiến dịch tiến công Béc-lin. Chỉ trong hai tuần lễ 450.000 quân phát xít Đức đã bị tiêu diệt. Ngày 9/5/1945, Đức ký văn bản đầu hàng vô điều kiện Liên Xô và các nước đồng minh.
Ngày 09/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Trong vòng một tuần lễ, Hông quân đã tiêu diệt một triệu quân thiện chiến của Nhật, buộc Nhật phải đầu hàng vô điều kiện. Tin Nhật đầu hàng đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng lên cao chưa từng thấy trong các tầng lớp nhân dân trên cả nước. Đây là thời khắc lịch sử minh chứng cho tình thế cách mạng trực tiếp đã chín muồi.
Sau khi được tin Nhật đầu hàng, theo lời hiệu triệu của Việt Minh, toàn dân ta đã đồng loạt nổi dậy cầm lấy tất cả những gì có thể làm vũ khí, tiến hành bứt phá một cuộc cách mạng thật là hùng vĩ - Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong tháng Tám năm 1945.
Đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa. Từ ngày 13/8 đến ngày 15/8, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào. Hội nghị chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền và cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc, Đại hội quốc dân cũng họp ở Tân Trào vào ngày 16/8/1945. Đại hội nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức là Chính phủ lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau Đại hội quốc dân ở Tân Trào, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào trong cả nước: “Giờ phút quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu đồng bào đã oanh liệt vùng dậy tiến hành một cuộc cách mạng với khí thế dời non lấp biển. Đúng như VI. Lê-nin, người thầy vĩ đại của chúng ta đã nói: “Trong thời kỳ cao trào cách mạng, lịch sử một ngày bằng hai mươi năm”. Chấp hành lệnh khởi nghĩa, từ ngày 14/8 đến 18/8/1945, hều hết các tỉnh ở miền Bắc cũng như miền Trung, miền xuôi cũng như miền ngược, đã giành được chính quyền ở các tỉnh lỵ.
Ngày 19/8, cuộc tổng Khởi nghĩa đã giành được thắng lợi rực rỡ ở Thủ đô Hà Nội. Cả Hà Nội đỏ rực màu cờ. Hàng chục vạn quần chúng mang theo dao mác, gậy gộc, mã tấu, súng ống rầm rập tiến về quảng trường Nhà hát lớn thành phố dự cuộc mít-tinh do Việt Minh tổ chức.
Đêm 22 và ngày 23/8, cờ đỏ sao vàng tràn ngập thành phố Huế trước sự biểu dương lực lượng của 150.000 quần chúng. Ngày 30/8, trước cuộc mít-tinh hàng vạn người tham gia ở Ngọ Môn, Bảo Đại - vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng.
Ngay sau khi tổng khởi nghĩa giành thắng lợi tại Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ đã cử đồng chí Hoàng Quốc Việt có mặt tại Sài Gòn và đã gửi bức điện ra Bắc như sau: “Hai mươi mốt tỉnh tôi đã qua đều đã giành được chính quyền, khắp lục tỉnh Nam Bộ cũng đã xong”.
Ngày 02/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít-tinh của gần một triệu người, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân, với thế giới rằng: nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập và tự do đã ra đời!
Trong 4.000 năm dựng nước và giữ nước, tổ tiên ta đã viết nên những trang sử huy hoàng của dân tộc với biết bao chiến công hiển hách lẫy lừng chống giặc ngoại xâm. Cách mạng tháng Tám năm 1945 là bước bứt phá cách mạng vĩ đại nhất, là “chiếc đầu tàu của lịch sử” trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại đã làm rạng danh non sông gấm vóc và vẻ vang nòi giống Lạc Hồng.
------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
- Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, Nxb. CTQG, Xb. lần thứ hai, HN,1955.
- Lịch sử Đảng Cộng sản VN, Nxb.ST, HN, 1981.
- Báo Việt Nam độc lập (1941- 1945), Nxb. Lao động, HN,2000.
(1) Hồ Chí Minh: Thư gửi đồng bào toàn quốc, Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự thật, HN, 1980, tr.344.
(2) Hồ Chí Minh: Thư gửi đồng bào toàn quốc, Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự thật, HN, 1980, tr.344.