Có 4 luật sư bào chữa cho Trịnh Văn Quyết
Để chuẩn bị cho phiên tòa, Hội đồng xét xử đã triệu tập bị hại là 30.403 nhà đầu tư đã mua cổ phiếu (lần bán ra ban đầu) của Công ty Cổ phần Xây dựng FLC Faros (mã chứng khoán ROS); triệu tập người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là 63.092 nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phiếu của Công ty Cổ phần Xây dựng FLC Faros và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác được tòa án triệu tập.
Trong số 50 bị cáo tại vụ án này, có 13 bị cáo thuộc Tập đoàn FLC gồm: Trịnh Văn Quyết (SN 1975, cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn FLC, Chủ tịch Công ty Cổ phần Hàng không Tre Việt), Trịnh Thị Minh Huế (SN 1981, Kế toán tổng hợp, em gái bị cáo Trịnh Văn Quyết), Trịnh Thị Thúy Nga (SN 1979, kế toán tổng hợp Tập đoàn FLC, thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Chứng khoán BOS, tiền thân là Công ty Cổ phần chứng khoán FLC, em gái bị cáo Trịnh Văn Quyết), Hương Trần Kiều Dung (SN 1978, Phó Chủ tịch thường trực Tập đoàn FLC, Chủ tịch HĐQT Công ty BOS); Nguyễn Thiện Phú (SN 1974, Kế toán tổng hợp Tập đoàn FLC, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần xây dựng FLC Faros), Trần Thế Anh (SN 1978, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn FLC, nguyên Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần xây dựng FLC Faros), Nguyễn Thị Nga (SN 1987, nhân viên Ban Kế toán), Đỗ Thị Huyền Trang (SN 1991, Phó Trưởng phòng Kế toán), Nguyễn Thanh Bình (SN 1975, cựu thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc), Lê Tân Sơn (SN 1983, cựu Phó Chánh văn phòng, Thư ký Hội đồng quản trị), Đặng Thị Hồng (SN 1991, nguyên Phó trưởng Ban Pháp chế), Trương Văn Tài (SN 1969, Đội trưởng đội xe thuộc Văn phòng Tập đoàn); và Phạm Thị Hải Ninh (SN 1985, cựu Phó trưởng Ban Đầu tư).
Cựu Chủ tịch FLC Trịnh Văn Quyết
Tám bị cáo thuộc Công ty Cổ phần chứng khoán BOS (tiền thân là Công ty Cổ phần chứng khoán FLC) gồm: Nguyễn Quỳnh Anh (SN 1980, Tổng Giám đốc), Nguyễn Thị Thanh Phương (SN 1986, Trưởng phòng Dịch vụ chứng khoán), Nguyễn Thị Thu Thơm (SN 1982, Phó Trưởng phòng Dịch vụ chứng khoán), Bùi Ngọc Tú (SN 1993, Phó Trưởng phòng Dịch vụ chứng khoán), Trần Thị Lan (SN 1984, Kế toán trưởng), Quách Thị Xuân Thu (SN 1979, kế toán trưởng), Nguyễn Minh Điềm (SN 1991, nhân viên hành chính nhân sự), Chu Tiến Vượng (SN 1976, cựu Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng quản trị).
Tám bị cáo thuộc Công ty Cổ phần xây dựng FLC Faros, gồm: Trịnh Văn Đại (SN 1966, Phó Tổng Giám đốc), Đỗ Như Tuấn (SN 1969, cựu Tổng Giám đốc), Đàm Mai Hương (SN 1976, cựu Kế toán trưởng), Nguyễn Văn Thanh (SN 1960, cựu Trưởng Ban kiểm soát), Đỗ Quang Lâm (SN 1975, Giám đốc Công ty Cổ phần Phát triển nhà Kiên Giang, nguyên Tổng Giám đốc, đại diện pháp luật), Lê Thành Vinh (SN 1979, Luật sư, Giám đốc Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn T&P; nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị), Nguyễn Tiến Dũng (SN 1975, nguyên Tổng Giám đốc, đại diện pháp luật Công ty Cổ phần xây dựng và đầu tư Vĩnh Hà - sau đổi tên thành Công ty Cổ phần Xây dựng FLC Faros), Nguyễn Bình Phương (SN 1973, cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị).
Bốn bị cáo thuộc Công ty TNHH Một thành viên FLC Land, gồm: Nguyễn Văn Mạnh (SN 1977, Trưởng nhóm Vật tư cảnh quan, Phòng Mua sắm và cung ứng vật tư), Hoàng Thị Thu Hà (SN 1980, nhân viên kế toán), Trịnh Tuân (SN 1984, cựu Giám đốc), Lê Văn Sắc (SN 1949, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đầu tư Địa ốc Alaska kiêm Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên FLC Land).
Bốn bị cáo thuộc các công ty khác trong hệ sinh thái FLC gồm: Trịnh Văn Nam (SN 1991, nhân viên Công ty Cổ phần Hàng không Tre Việt), Trịnh Thị Thanh Huyền (SN 1977, nhân viên Công ty Cổ phần Đầu tư kinh doanh phát triển Bất động sản FLC Homes), Hoàng Thị Huệ (SN 1992, chuyên viên Công ty Cổ phần thương mại và dịch vụ số FLC), Trịnh Thị Út Xuân (SN 1987, nhân viên Công ty Cổ phần thương mại và dịch vụ số FLC).
Bốn bị cáo thuộc Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM gồm: Trần Đắc Sinh (SN 1956, cựu Chủ tịch HĐQT), Lê Hải Trà (SN 1974, cựu Phó Tổng Giám đốc), Trầm Tuấn Vũ (SN 1975, cựu Phó Tổng Giám đốc), và Lê Thị Tuyết Hằng (SN 1976, Giám đốc Phòng Giám sát giao dịch, nguyên Giám đốc Phòng Quản lý và Thẩm định niêm yết).
Công an khám xét trụ sở Tập đoàn FLC
Sáu bị cáo thuộc lĩnh vực kiểm toán, chứng khoán gồm: Nguyễn Ngọc Tỉnh (SN 1964, Chủ tịch Hội đồng thành viên, nguyên Tổng Giám đốc Công ty TNHH Kiểm toán và kế toán Hà Nội - CPA), Lê Văn Tuấn (SN 1978, Kiểm toán viên Công ty CPA), Trần Thị Hạnh (SN 1977, Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH Kiểm toán TTP - trước là Công ty TNHH Kiểm toán ASC), Lê Công Điền (SN 1971, Vụ trưởng Vụ Giám sát Công ty đại chúng, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước), Dương Văn Thanh (SN 1967, Tổng Giám đốc Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam); Phạm Trung Minh (SN 1978, Nguyên Trưởng phòng Đăng ký chứng khoán).
Ba bị cáo còn lại gồm: Nguyễn Quang Trung (SN 1970, lái xe Bệnh viện Đa khoa Hà Thành), Nguyễn Thị Hồng Dung (SN 1972, trú tại phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, Hà Nội), Phạm Thanh Hương (SN 1984, Kế toán hành chính Công ty TNHH Đầu tư Sevin).
Sáu Kiểm sát viên thuộc Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (Vụ 5) và Viện Kiểm sát nhân dân TP.Hà Nội được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án. Có khoảng 100 luật sư đăng ký tham gia bào chữa cho các bị cáo tại phiên tòa, trong đó có 4 luật sư bào chữa cho bị cáo Trịnh Văn Quyết.
Nâng khống vốn góp, chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư
Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đã truy tố các bị cáo: Trịnh Văn Quyết, Trịnh Thị Minh Huế, Trịnh Thị Thúy Nga, Hương Trần Kiều Dung, Trịnh Văn Đại, Nguyễn Văn Mạnh, Trịnh Tuân, Nguyễn Thị Hồng Dung về tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" (theo quy định tại quy định tại Điều 174, khoản 4, điểm a - Bộ luật Hình sự) và tội "thao túng thị trường chứng khoán" (theo quy định tại Điều 211, khoản 2, điểm b - Bộ luật Hình sự).
Các bị cáo: Đỗ Như Tuấn, Đỗ Quang Lâm, Nguyễn Văn Thanh, Đàm Mai Hương, Nguyễn Bình Phương, Hoàng Thị Thu Hà, Nguyễn Tiến Dũng, Lê Thành Vinh, Nguyễn Thanh Bình, Lê Tân Sơn, Trần Thế Anh, Đặng Thị Hồng, Lê Văn Sắc, Trương Văn Tài, Nguyễn Minh Điểm, Trịnh Thị Út Xuân, Phạm Thanh Hương, Phạm Thị Hải Ninh, Nguyễn Thiện Phú, Nguyễn Ngọc Tỉnh, Lê Văn Tuấn, Trần Thị Hạnh bị truy tố về tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại quy định tại Điều 174, khoản 4, điểm a - Bộ luật Hình sự.
Các bị cáo: Trần Đắc Sinh, Lê Hải Trà, Trầm Tuấn Vũ, Lê Thị Tuyết Hằng bị truy tố về tội "lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo quy định tại Điều 356, khoản 3 - Bộ luật Hình sự.
Các bị cáo: Nguyễn Quỳnh Anh, Chu Tiến Vượng, Nguyễn Thị Thanh Phương, Bùi Ngọc Tú, Nguyễn Thị Thu Thơm, Quách Thị Xuân Thu, Trần Thị Lan, Trịnh Văn Nam, Trịnh Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị Nga, Hoàng Thị Huệ, Đỗ Thị Huyền Trang, Nguyễn Quang Trung bị truy tố về tội "Thao túng thị trường chứng khoán" theo quy định tại Điều 211, khoản 2, điểm b - Bộ luật Hình sự.
Ba bị cáo: Lê Công Điền, Dương Văn Thanh, Phạm Trung Minh bị truy tố về tội "cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán" theo quy định tại Điều 209, khoản 2, điểm c - Bộ luật Hình sự.
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, nhằm chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư để sử dụng vào mục đích riêng của mình, Trịnh Văn Quyết đã sử dụng Công ty Faros làm công cụ, chỉ đạo Doãn Văn Phương và Trịnh Thị Minh Huế thực hiện hành vi gian dối tăng khống vốn góp chủ sở hữu tại Công ty Faros từ 1,5 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng, sau đó hoàn thiện các thủ tục để niêm yết cổ phiếu tương ứng với giá trị vốn góp khống của Công ty Faros trên sàn chứng khoán; sử dụng sàn HOSE làm công cụ, phương tiện bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư.
Để chiếm đoạt được tiền, Trịnh Văn Quyết giao Doãn Văn Phương và Trịnh Thị Minh Huế trực tiếp chỉ đạo và điều hành toàn bộ hoạt động để hợp thức hồ sơ nâng vốn khống; trực tiếp nhờ một số cá nhân đứng tên là cổ đông nhận chuyển nhượng cổ phần của Công ty Faros, gồm: Trần Thế Anh, Lê Thành Vinh, Hương Trần Kiều Dung, Nguyễn Thiện Phú, Đặng Thị Hồng, Nguyễn Văn Thanh. Các bị cáo thuộc Công ty Faros, Công ty kiểm toán, người thân quen của Trịnh Văn Quyết, Trịnh Thị Minh Huế... đã thực hiện chỉ đạo của Doãn Văn Phương và Trịnh Thị Minh Huế ký hợp thức các thủ tục nâng khống vốn góp và hợp thức sử dụng vốn góp khống; ghi nhận thông tin gian dối này vào Báo cáo tài chính kiểm toán, Bản cáo bạch để hoàn thiện hồ sơ niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn chứng khoán.
Các bị cáo thuộc Vụ Giám sát công ty đại chúng Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, VSD và sàn HOSE đã sử dụng những thông tin gian dối trên Báo cáo tài chính kiểm toán và hồ sơ tài liệu của Công ty Faros cung cấp để chấp thuận công ty đại chúng, đăng ký chứng khoán và niêm yết 430 triệu cổ phiếu ROS trên sàn HOSE.
Với động cơ, mục đích, thủ đoạn nêu trên, Trịnh Văn Quyết đã sử dụng sàn HOSE làm phương tiện để bán 391.155.480 cổ phiếu hình thành từ vốn góp nâng khống cho 30.403 nhà đầu tư trên sàn chứng khoán, chiếm đoạt 3.621 tỷ đồng.
Để xảy ra hậu quả trên, có sự tham gia giúp sức tích cực của các bị cáo trong vụ án vào quá trình nâng khống vốn góp, ủy thác đầu tư, nhận ủy thác đầu tư, hợp thức dòng tiền từ vốn góp khống; xác định vốn góp khống; chấp thuận niêm yết cổ phiếu để tạo điều kiện giúp Trịnh Văn Quyết bán cổ phiếu được hình thành từ vốn góp chủ sở hữu khống, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Ngoài ra, Viện Kiểm sát xác định Trịnh Văn Quyết, Trịnh Thị Minh Huế, Trịnh Thị Thúy Nga còn có hành vi thao túng thị trường chứng khoán, thu lợi bất chính hơn 684 tỷ đồng.