Sản xuất xanh là xu thế tất yếu

Thứ Hai, 20/11/2023 08:20

|

(CATP) Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU đã có hiệu lực trong giai đoạn chuyển tiếp vào ngày 01/10/2023. Sản xuất sắt thép là một trong những ngành phát thải nhiều carbon nhất bị điều chỉnh bởi cơ chế này. Ngoài ra, nhiều ngành khác cũng buộc phải chuyển hướng sản xuất xanh, để thúc đẩy năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững nếu muốn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.

Không chỉ sắt thép, dệt may cũng phải sản xuất xanh

Sản xuất sắt, thép là ngành thải ra khí CO2 nhiều nhất. Hiệp hội Thép thế giới ước tính ngành thép đóng góp từ 7 - 9% tổng lượng khí thải do con người tạo ra trên toàn thế giới, với 2,6 tỷ tấn CO2 thải ra trong năm 2020. Tác động của Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) đối với hoạt động xuất khẩu sắt thép của Việt Nam sang Liên minh Châu Âu (EU) là một thách thức, rào cản không nhỏ, nếu xét về ngắn và trung hạn, bởi nó đòi hỏi nguồn vốn lớn, công nghệ sản xuất tiên tiến.

Không chỉ ngành thép, xi măng, hóa chất, thậm chí cả dệt may, nhiều sản phẩm khác từ nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi cơ chế CBAM.

Nhiều chuyên gia cho rằng, tác động của CBAM đối với hoạt động xuất khẩu sắt thép của Việt Nam sang EU là một thách thức khá lớn, bởi nó đòi hỏi nguồn vốn lớn, công nghệ sản xuất tiên tiến. Tuy nhiên về dài hạn, đây là cơ hội cho các doanh nghiệp (DN) thép Việt Nam thay đổi công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và phát triển bền vững, theo xu thế sản xuất xanh và tuần hoàn của thế giới. Để thực hiện được điều này, các DN thép cần kiểm kê khí nhà kính theo yêu cầu của Bộ Công thương và CBAM nếu muốn xuất khẩu sang EU.

Phía EU rất kiên quyết với lộ trình thực hiện CBAM nên bắt đầu từ tháng 10/2023, các công ty thép của Việt Nam phải thực hiện chế độ báo cáo, nếu thông tin không chính xác sẽ bị phạt rất nặng. Nếu không kịp tổ chức sản xuất xanh, các DN phải mua tín chỉ carbon, hiện giá mỗi tín chỉ carbon tại Châu Âu lên tới hơn 90 USD/tấn CO2, thì giá thành sản xuất sẽ bị đẩy lên cao, gây khó khăn trong cạnh tranh.

Việc EU đưa cơ chế CBAM vào tiêu chuẩn sản xuất thép, xi măng, phân bón, điện... phải khai báo mức phát thải theo yêu cầu của cơ chế CBAM, vừa là áp lực cũng vừa là cơ hôi, buộc các nhà sản xuất thép Việt Nam phải thúc đẩy nhanh hơn quá trình sản xuất xanh, giảm phát thải để tăng xuất khẩu vào EU, cũng như giải quyết vấn đề tồn tại bấy lâu nay của các ngành sản xuất phát thải nhiều CO2 ở nước ta.

Yêu cầu sản xuất xanh không chỉ áp dụng với ngành sắt thép, các DN khác cũng phải chuyển đổi sản xuất, giảm phát thải carbon hoặc trao đổi tín chỉ carbon. Nếu chậm chân sẽ khó cạnh tranh, thậm chí vấp phải các rào cản tại những thị trường xuất khẩu. Chứng chỉ sản xuất xanh được xem như thẻ thông hành để các DN tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tân Cảng Cát Lái (TPHCM) là cảng đầu tiên tại Việt Nam đạt danh hiệu "Cảng xanh" của Hội đồng mạng lưới dịch vụ cảng APEC bình chọn

EU cũng vừa cử chuyên gia đến các DN nước ta để đo lượng phát thải carbon đối với các ngành nghề thậm chí chưa nằm trong danh sách CBAM. Như ở Việt Thắng Jeans - dù chưa nằm trong nhóm hàng hóa có nguy cơ phát thải carbon cao nhưng do xuất khẩu sang EU, nên trong tháng 9/2023, EU đã tổ chức đoàn sang để đo lượng phát thải tại DN này ở từng loại máy móc trong ba ngày liên tiếp.

Các sản phẩm dệt may nếu xuất khẩu sang EU mà vượt mức phát thải cho phép sẽ bị đánh thuế 86 USD/tấn CO2. Với Việt Thắng Jeans có quy mô sản xuất lớn, phát thải lên đến 14 tấn/ngày, tương đương DN phải đóng đến 30 triệu đồng/ngày - một lãnh đạo DN này cho biết.

Trong bối cảnh các nước đang triển khai nhiều hành động hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, nhiều khu vực và quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... đã ban hành những quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu, đòi hỏi hàng hóa sản xuất phải tuân thủ các yêu cầu về môi trường, trong đó có sản phẩm dệt may. Do vậy các DN dệt may Việt Nam đang nỗ lực tìm hướng chuyển đổi sang sản xuất xanh và thân thiện với môi trường. Xanh hóa ngành dệt may sẽ góp phần mang lại nhiều lợi thế cho DN khi tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.

Theo ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), sản xuất xanh là xu hướng toàn cầu và dệt may cũng vậy. Hiện các DN trong ngành dệt may nước ta đang tích cực chuyển đổi sản xuất xanh, sử dụng các nguyên liệu thân thiện môi trường. Chứng chỉ xanh, được xem như thẻ thông hành để các DN tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.

Hội thảo "Giải pháp thúc đẩy DN dệt may chuyển đổi xanh" được tổ chức trong khuôn khổ triển lãm quốc tế về dệt may (SaigonFabric Summer 2023) do Bộ Công thương, VITAS, Tập đoàn Dệt May Việt Nam... tổ chức từ ngày 26 đến 29/7/2023, thu hút sự tham gia của các chuyên gia, đại diện cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội DN trong và nước ngoài... Phát biểu tại hội thảo, ông Huỳnh Minh Vũ, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Hỗ trợ Hội nhập quốc tế TPHCM (CIIS) cho biết, để hỗ trợ DN trong việc chuyển đổi các mô hình sản xuất theo hướng phát triển bền vững, TPHCM đã tổ chức nhiều chương trình về chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững... nhằm cung cấp thông tin về các mô hình kinh doanh, xu hướng phát triển mới cho cộng đồng DN.

Vải được sản xuất từ nguồn nguyên liệu xanh như bã cà phê, vỏ hàu, lá bạc hà, thân và lá sen, sợi sen; vải nano, gỗ của Công ty Faslink

Ngoài thay đổi công nghệ để đáp ứng sản xuất xanh, ở TPHCM một số công ty đã thay đổi nguồn nguyên liệu sản xuất. Công ty cổ phần Kết Nối Thời Trang - Faslink là đơn vị tiên phong trong việc hợp tác với nhiều công ty nước ngoài như Đài Loan, Nhật Bản để thương mại hóa các loại sợi vải xanh từ bã cà phê, vỏ hàu, lá bạc hà, thân và lá sen, sợi sen; chai nhựa PET, vải nano, gỗ (gỗ bạch đàn, gỗ cây sồi)... Những sợi vải xanh được xử lý bằng công nghệ hiện đại đều có tính ứng dụng cao sản xuất các sản phẩm bằng nguyên liệu xanh. Sản phẩm xanh có nhiều tính năng nổi trội, màu sắc đa dạng và chất liệu mới mẻ, vượt trội về chất lượng, thân thiện với môi trường và an toàn cho sức khỏe người sử dụng.

Nếu DN không có chiến lược chuyển đổi xanh, khách hàng sẽ lựa chọn những nhà cung cấp khác đáp ứng các yêu cầu về giảm phát thải, sản xuất xanh và phát triển bền vững, dẫn đến việc DN sẽ mất đơn hàng và sẽ bị bỏ lại phía sau.

Cảng biển cũng phải xanh

Cục Hàng hải Việt Nam vừa ban hành Quyết định số 710/QĐ-CHHVN, về kế hoạch thực hiện đề án phát triển cảng xanh tại Việt Nam. Việc "xanh hóa" cảng biển đang là xu hướng của thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này. Việc giảm khí phát thải tại cảng biển không chỉ làm tăng hiệu quả kinh tế biển mà còn góp phần bảo đảm cho việc các DN có cơ hội đầu tư thay thế dây chuyền lạc hậu bằng dây chuyền công nghệ hiệu suất cao, tiết kiệm năng lượng, tốt cho môi trường.

Theo đó, trong giai đoạn 2021 - 2025 sẽ nghiên cứu đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ các DN để thực hiện tiến trình phát triển cảng xanh; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sạch, thân thiện với môi trường trong hoạt động khai thác cảng biển. Từ năm 2023, mô hình cảng xanh tại một số cảng biển Việt Nam sẽ bắt đầu được thí điểm và đánh giá kết quả thực hiện.

Đến giai đoạn 2025 - 2030, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về tiêu chí cảng xanh sẽ được xây dựng và ban hành, tiến tới đề xuất xây dựng, ban hành quy định áp dụng bắt buộc tiêu chí cảng xanh cho hệ thống cảng biển Việt Nam cũng sẽ được thực hiện ở giai đoạn này. Dự kiến đến sau năm 2030, tiêu chí cảng xanh trong quy hoạch, đầu tư xây dựng và kinh doanh khai thác cảng biển tại Việt Nam được áp dụng bắt buộc.

Tân Cảng Cát Lái (TPHCM) là cảng đầu tiên tại Việt Nam đạt danh hiệu "Cảng xanh" của Hội đồng mạng lưới dịch vụ cảng APEC. Để đạt được tiêu chí này, Tân Cảng Cát Lái đã thay thế thiết bị nâng hạ sử dụng dầu diesel bằng các thiết bị chạy điện, qua đó tiết kiệm từ 1,5 - 2 triệu USD phí nhiên liệu/năm. Tăng cường vận tải thủy với sức chở cùng lúc được 3.000 Teus, thay thế được khoảng 2.000 xe ôtô chở container... Cảng còn áp dụng chứng từ điện tử giúp thời gian xe đậu chờ tại cổng cảng giảm từ 13 phút xuống còn 6 phút, triệt tiêu văn bản giấy tại cảng khoảng 30.000 - 50.000 tờ/ngày...

Theo công bố của Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) về phát thải khí nhà kính lần thứ 4 vào tháng 8/2020, lượng phát thải khí nhà kính của ngành vận tải biển (kể cả đánh bắt cá) đã tăng gần 9,6% trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2018 (từ 977 triệu tấn lên 1.076 triệu tấn). Chỉ tính riêng phát thải khí CO2 đã tăng từ 962 triệu tấn lên 1.056 triệu. Dự báo, đến năm 2050, lượng phát thải khí thải nhà kính của hoạt động vận tải biển sẽ tăng 50% so với năm 2018.

Vì vậy, việc "xanh hóa" cảng biển trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ giúp giảm khí phát thải tại khu vực cảng biển, tăng hiệu quả kinh tế khai thác kinh tế cảng và bảo đảm sức khỏe cho người dân, thúc đẩy năng lực cạnh tranh và cải thiện năng lực phát triển bền vững.

Nông nghiệp cũng hướng đến sản xuất xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế toàn cầu, đầu tư cho phát triển xanh là xu hướng tất yếu. Nước ta có gần 65% dân số tham gia sản xuất, nông nghiệp không chỉ là ngành chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu mà còn là ngành gây ra phát thải khí nhà kính rất lớn. Việt Nam đang từng bước chuyển đổi mô hình sản xuất đáp ứng xu thế tăng trưởng xanh, tiêu dùng xanh.

Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam từng cảnh báo, thế giới đang ngày càng quan ngại đến dấu chân carbon (Carbon footprint - lượng khí nhà kính chủ yếu là carbon dioxide, được thải vào khí quyển) từ các sản phẩm của quốc gia. Việt Nam có dấu chân carbon khá cao trong sản phẩm nông nghiệp và điều này gây ảnh hưởng đến thành tích mà Việt Nam đã đạt được trong vòng 30 năm qua.

Đó là lý do Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. Thời gian qua, để thực hiện "xanh hóa sản xuất", ngành nông nghiệp đã tập trung sản xuất các mô hình VIETGAP, hữu cơ, sản xuất nông nghiệp tuần hoàn... và những mô hình sản xuất sạch, xanh như vậy ngày càng tăng nhanh.

Bình luận (0)

Lên đầu trang