Diễn biến mới nhất vụ đòi hơn 790 tỷ đồng kèm 535 tỷ tiền lãi ở Bình Chánh:

Rút kháng nghị, đình chỉ xét xử giám đốc thẩm

Thứ Tư, 25/06/2025 11:46

|

(CATP) Nhân kỷ niệm 49 năm thành lập Báo CATP (15/6/1976 - 2025), đại diện Công ty CP tư vấn đầu tư - xây dựng - thương mại - sản xuất Nhựt Thành ("Công ty N.T") trân trọng chúc mừng, đồng thời báo tin vui liên quan đến vụ án kéo dài nhiều năm. Việc Chánh án TAND Cấp cao tại TPHCM rút kháng nghị giám đốc thẩm (GĐT) đã chứng minh tính xác thực của loạt điều tra mà Báo CATP thực hiện suốt 2 năm qua. Mới nhất là bài "Kháng nghị "giữ y bản án" đã bị hủy vì nhiều vi phạm (?!)" đăng ngày 13 và 14/12/2024.

Vay 89,5 tỷ đồng, trả 97,2 tỷ, còn nợ… 1.325 tỷ (?!)

Như Chuyên đề (Báo) CATP đã có nhiều loạt bài điều tra, phản ánh (đăng từ giữa năm 2023), nguyên đơn trong vụ đòi số tiền "khủng" là vợ chồng ông Cao Minh Tân (SN 1966) và bà Phạm Thị Linh Phượng (SN 1967, ngụ TPHCM). Cuối tháng 10/2022, ông Tân - bà Phượng đã bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Long bắt tạm giam về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Theo đơn khởi kiện, từ năm 2013 - 2015, ông Tân - bà Phượng cho bị đơn là Công ty N.T (trụ sở tại ấp 2, xã Bình Chánh, H.Bình Chánh, TPHCM) do bà Nguyễn Thị Quí làm đại diện, vay tiền mặt nhiều lần. Ngày 15/01/2015, hai bên lập "giấy xác nhận tiền nợ và phương thức thanh toán nợ" ("Giấy XNTN"), nội dung: Bà Quí có mượn ông Tân - bà Phượng 790,433 tỷ đồng. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc Công ty N.T thanh toán hơn 1.325 tỷ đồng, gồm 790,433 tỷ "nợ gốc" và 535,3 tỷ "lãi" (tạm tính đến ngày 05/11/2018). Quá trình tố tụng, nguyên đơn rút yêu cầu trả "lãi".

Vợ chồng nguyên đơn Tân - Phượng là bị can trong vụ án hình sự ở Vĩnh Long

Bị đơn trình bày: Qua giới thiệu của 1 lãnh đạo ngân hàng chi nhánh tại H.Bình Chánh, Công ty N.T có vay tiền của Công ty Hòa Phong do ông Tân làm Giám đốc. Từ tháng 8/2009 - 4/2011, Công ty Hòa Phong và cá nhân ông Tân - bà Phượng đã cho Công ty N.T vay nhiều lần với tổng số tiền 89,5 tỷ đồng. Tính đến ngày 16/7/2015, Công ty N.T đã thanh toán cho 2 người này 66 lần với tổng số tiền 97,275 tỷ đồng. "Giấy XNTN" với 790,433 tỷ đồng "nợ gốc" là không có thật, mà do nguyên đơn tự tính "lãi chồng lãi" từ khoản vay 89,5 tỷ đồng, theo kiểu "tín dụng đen".

TAND H.Bình Chánh với HĐXX do Thẩm phán Nguyễn Hoàng Sơn ngồi ghế chủ tọa cùng 2 Hội thẩm Võ Hoàng Thu và Nguyễn Thị Nguyên, tuyên Bản án sơ thẩm số 16/2022/DS-ST ("Bản án 16") ngày 13/01/2022: Buộc Công ty N.T trả cho ông Tân - bà Phượng 790,433 tỷ đồng. Sau khi án tuyên, bà Quí qua đời trong tức tưởi, ôm theo món nợ oan xuống cửu tuyền.

Bị đơn và 2 thành viên HĐQT Công ty N.T cùng kháng cáo. Viện trưởng VKSND H.Bình Chánh ký Quyết định (QĐ) kháng nghị hủy toàn bộ Bản án 16.

Xem xét toàn diện hồ sơ, TAND TPHCM tuyên Bản án phúc thẩm số 666/2023/DSPT ("Bản án 666") ngày 15/6/2023: Hủy Bản án 16 để xét xử lại sơ thẩm. HĐXX nhận định: Cấp sơ thẩm có nhiều thiếu sót về mặt tố tụng cũng như nội dung, nên cần hủy bản án, để giải quyết lại sơ thẩm một cách toàn diện.

Vụ "kỳ án" đã được TAND H.Bình Chánh thụ lý lại ngày 23/8/2023. Quá trình tố tụng, phía bị đơn đã chứng minh 790,433 tỷ đồng là con số do vợ chồng chủ nợ tự tính "lãi chồng lãi" từ số tiền gốc 89,5 tỷ đồng. Phía bị đơn đã hóa giải "công thức" tính lãi như sau:

Từ ngày 05/8/2009 - 07/4/2011, nguyên đơn cho bị đơn vay 10 lần với tổng số tiền 89,5 tỷ đồng, lãi suất 6,5 - 12%/tháng; nếu chưa trả hết lãi thì nhập lãi thành vốn mới, tính lãi cho tháng tiếp theo. Tại thời điểm ngày 21/4/2011, món vay 89,5 tỷ đồng đã lên 209 tỷ; nhảy vọt lên 759,86 tỷ đồng thể hiện tại "giấy XNTN" ngày 14/3/2013.

Tại thời điểm ký "Giấy XNTN" ngày 15/01/2015, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn 83,22 tỷ đồng lãi. Tính đến ngày 16/7/2015, bị đơn đã trả nợ 66 lần (51 lần tiền mặt và 15 lần chuyển khoản, có đầy đủ chứng từ), với tổng số tiền 97,275 tỷ đồng, nhưng "nợ gốc" 790,433 tỷ giữ nguyên (?!).

Cả 10 lần vay tiền và 66 lần trả nợ là một quan hệ duy nhất, xuyên suốt giữa Công ty Hòa Phong do ông Tân làm đại diện cùng bà Phượng và 2 con (ký nhận tiền lãi) với Công ty N.T. Chủ nợ cho rằng, khoản vay 89,5 tỷ đồng liên quan đến Công ty Hòa Phong đã tất toán, còn 790,433 tỷ của cá nhân ông Tân - bà Phượng là hoàn toàn không có căn cứ. Thực tế, ngoài "Giấy XNTN" ngày 15/01/2015, ông Tân - bà Phượng không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh cho việc vay mượn, giao nhận tiền liên quan đến món nợ "khủng".

Quyết định rút kháng nghị giám đốc thẩm

Với các chứng cứ mới đã thu thập, bị đơn kiến nghị Tòa án chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án dân sự sang Cơ quan điều tra để làm rõ dấu hiệu của hành vi "cho vay lãi nặng" và "lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" (phía nguyên đơn đã giữ 2 giấy chứng nhận QSDĐ hơn 172.000m2 tại H.Bình Chánh của Công ty N.T).

Kháng nghị và rút kháng nghị

Khoảng cuối tháng 11/2024 Công ty N.T bất ngờ nhận được QĐ kháng nghị GĐT số 59/2024/KN-DS (QĐ số 59) ngày 22/10/2024 của TAND Cấp cao tại TPHCM do Phó Chánh án Võ Văn Cường ký, đề nghị hủy toàn bộ Bản án 666 và giữ nguyên Bản án 16. Theo Phó Chánh án Cường, khoản vay giữa Công ty N.T với ông Tân - bà Phượng đã được Tòa sơ thẩm giải quyết đúng pháp luật. Để tránh kéo dài vụ án, cần kháng nghị hủy án phúc thẩm và giữ nguyên án sơ thẩm (?!).

Bị đơn chứng minh Bản án 16 có hàng loạt vi phạm về tố tụng lẫn nội dung mới bị VKSND H.Bình Chánh kháng nghị. TAND TPHCM "soi" rất kỹ Bản án 16 có nhiều "lỗ hổng" nên tuyên hủy là có căn cứ.

Trưng bằng chứng, Công ty N.T đề nghị Chánh án TAND Cấp cao tại TPHCM rút toàn bộ kháng nghị, chờ kết quả điều tra đối với hành vi "cho vay lãi nặng" xảy ra trong vụ án này theo kiến nghị của TAND H.Bình Chánh.

Bị đơn đã tìm ra "công thức" tính lãi của nguyên đơn

Nghiên cứu kỹ hồ sơ, Chánh án TAND Cấp cao tại TPHCM Trần Thanh Hoàng đã ký QĐ số 01/2025/RKN-DS (QĐ số 01) ngày 14/3/2025 "rút lại QĐ số 59". Lý do:

Thứ nhất, ông Tân - bà Phượng cho rằng 790,433 tỷ đồng là khoản tiền cho vay nhiều lần, từ năm 2013 - 2015, kết thúc bằng "Giấy XNTN" ngày 15/01/2015, nhưng không đưa ra được bằng chứng về những lần cho vay trước đó. Theo đương sự, vì tin tưởng nên 2 bên không lập giấy biên nhận khi vay tiền. Lập luận này không phù hợp với những tài liệu khác. Trong hồ sơ vụ án có rất nhiều giấy biên nhận thể hiện những giao dịch cho vay xảy ra giữa 2 bên từ trước năm 2013. Những giao dịch sau này, với số tiền rất lớn, lại không làm giấy biên nhận. Như vậy, về bản chất "Giấy XNTN" ngày 15/01/2015 chỉ là VB ghi nhận lại những sự việc đã xảy ra trước đó mà không có bằng chứng kèm theo của việc giao và nhận tiền giữa 2 bên.

Thứ hai, theo bản điều lệ năm 2008 của Công ty N.T có 3 thành viên cùng góp vốn và sáng lập, gồm: bà Quí, ông Ngô Minh Tuấn và bà Ngô Thị Ngọc Dung. Quá trình giải quyết vụ án, ông Tuấn và bà Dung cho rằng không biết gì về khoản tiền vay nói trên và khoản tiền đó chưa bao giờ được sự đồng ý của Hội đồng cổ đông. Bà Quí thì cho rằng, khoản nợ trên là "khống", phía nguyên đơn cho nhiều người gây áp lực, buộc phải ký nhận. Số tiền vay ban đầu năm 2009 chỉ 89,5 tỷ đồng. Từ ngày 05/10/2009 - 16/7/2015, Công ty N.T đã trả được 97,275 tỷ, nhưng ông Tân - bà Phượng vẫn tiếp tục tính lãi rất cao để thành số tiền 790,433 tỷ đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập lời khai của bà Ngô Thị Thanh Loan là Kế toán trưởng Công ty N.T. Bà Loan cho rằng, chỉ khi nào Tòa án chấp nhận cho bà tham gia tố tụng với tư cách "người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan" thì mới đồng ý cung cấp lời khai.

QĐ số 01 xác định: Căn cứ Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2005 (quy định về những loại hợp đồng, giao dịch phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc HĐQT chấp thuận), thì không có căn cứ để xác định khoản vay 790,433 tỷ đồng đã được Đại hội đồng cổ đông hoặc HĐQT của Công ty N.T chấp thuận. Mặt khác, vì không có báo cáo kiểm toán tài chính hàng năm, nên chưa có căn cứ so sánh khoản vay (790,433 tỷ đồng) với tổng giá trị tài sản của Công ty N.T, để từ đó có cơ sở xác định giới hạn số tiền vay thuộc quyền hạn của bà Quí.

Về nguyên tắc tài chính - kế toán, muốn xác định trách nhiệm trả nợ của 1 pháp nhân đối với khoản tiền vay bất kỳ, thì ngoài giấy biên nhận, phải có bằng chứng cụ thể về việc pháp nhân đó đã thực sự vay tiền, đưa khoản tiền vay vào sử dụng trong hoạt động sản xuất - kinh doanh mà pháp nhân đó đã đăng ký với Nhà nước. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa cấp sơ thẩm không thực hiện việc trưng cầu giám định tài chính, giám định hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty N.T (khoảng thời gian diễn ra việc cho vay mà nguyên đơn đã khai, từ năm 2013 - 2015). Vì vậy, chưa có căn cứ để xác định rõ ràng trách nhiệm của Công ty N.T và trách nhiệm của bà Quí đối với khoản vay 790,433 tỷ đồng.

Sau khi kháng nghị do Phó Chánh án Cường ký bị rút, TAND Cấp cao tại TPHCM đã ra QĐ số 56/2025/QĐ-TA ngày 17/3/2025 "đình chỉ xét xử GĐT". Bản án 666 của TAND TPHCM tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

Đại diện Công ty N.T bày tỏ: "Vụ án được TAND H.Bình Chánh tiếp tục giải quyết sơ thẩm. Một lần nữa, chúng tôi trân trọng cảm ơn Báo CATP và mong quý báo tiếp tục đồng hành, giúp doanh nghiệp giải nỗi oan ức...".

Bình luận (0)

Lên đầu trang