Kỳ án nguyên đơn có 3... năm sinh

Thứ Năm, 12/06/2025 06:27

|

(CATP) Khởi kiện "tranh chấp chia di sản thừa kế", bà Nguyễn Thị Thu khai "SN 1956"; khi trích lục khai sinh thì người này "chào đời "ngày 25/01/1951"! Tại "phiếu cung cấp thông tin", cơ quan chức năng xác định bà Thu "SN 1950". Năm sinh "nhảy múa", nhưng Thẩm phán TAND Q11 Bùi Tô Đông Đức "phán" nguyên đơn "SN 1951" ghi rõ trong hàng loạt văn bản (?!). Trong đó có Quyết định "thỏa thuận thành" đang bị khiếu nại gay gắt…

8 năm, 5 thẩm phán giải quyết

Có mặt tại Tòa soạn, ông Nguyễn Trung Hiếu (SN 1963, ngụ P3Q11) và vợ là bà Bùi Ánh Loan (SN 1967) cùng trình bày: Ông là con của hai cụ Nguyễn Văn Tư (SN 1924, mất 1990) và Trần Thị Sáo (SN 1925, mất 2013). Năm 1989, hai cụ mua căn nhà 106B/119 Lạc Long Quân, P3Q11 (nhà đất 106B/119), được UBND Q11 cấp giấy chứng nhận (GCN) quyền sở hữu nhà ở (QSDNO) số 10/CN.

Hơn 18 năm sau khi cụ Tư qua đời, ngày 30/7/2008, cụ Sáo lập văn bản (VB) khai nhận di sản thừa kế. Ngày 01/8/2008, cụ Sáo lập hợp đồng (HĐ) tặng cho ông Hiếu phần thuộc sở hữu và phần thừa kế của cụ đối với nhà đất 106B/119. Được UBND Q11 cấp giấy phép xây dựng ngày 29/7/2010, ông Hiếu dỡ bỏ nhà cũ, xây căn nhà mới 4 tầng trên phần đất 39,7m2. Sau khi xây xong và làm thủ tục hoàn công, vợ chồng ông được UBND Q11 cấp GCN quyền sử dụng đất (QSDĐ), QSHNO và tài sản gắn liền với đất số BE 803885 ngày 21/12/2011.

Ngày 30/7/2015, ông Hiếu lập HĐ tặng cho phần QSDĐ và QSHNO của mình đối với nhà đất 106B/119 cho bà Loan, được cập nhật biến động ngày 10/8/2015. Ngày 30/11/2017, bà Loan ký HĐ chuyển nhượng nhà đất 106B/119 cho bà Châu Dung (SN 1963, ngụ P14Q4), được cập nhật ngày 08/12/2017.

Ông Nguyễn Trung Hiếu liên tục có đơn đề nghị GĐT đối với QĐ số 212
Bà Châu Dung viết đơn kêu cứu gửi Chuyên đề Công an TPHCM

Hồ sơ thể hiện: Ngày 06/7/2015, TAND Q11 ra thông báo do Thẩm phán (TP) Hoàng Thị Bích Duyên ký, xác định: TAND Q11 đã thụ lý vụ án dân sự số 141/2015/TLDS-ST ngày 06/7/2015, về việc "tranh chấp chia di sản thừa kế" theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thu "SN 1956, địa chỉ tổ 43/10, ấp Hải Tân, xã Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu". Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết: Bà Thu là con nuôi của cụ Tư và cụ Sáo, được chia di sản thừa kế do cha mẹ để lại là nhà đất 106B/119 có giá trị 1 tỷ đồng; bà Thu được hưởng 50% (500 triệu).

Ngày 08/6/2016, TP Duyên ký VB, xác định nguyên đơn khởi kiện bổ sung, yêu cầu Tòa án hủy VB khai nhận di sản ngày 30/7/2008; hủy HĐ ngày 01/8/2008 và hủy GCN số BE 803885. Ngày 23/9/2016, TP Duyên ký Quyết định (QĐ) chuyển hồ sơ vụ án (HSVA) đến TAND TPHCM để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 29/11/2016, TAND TPHCM ra thông báo thụ lý vụ án do TP Châu Kim Anh ký. Sau hơn 4 tháng thụ lý, ngày 05/4/2017, TP Anh ký QĐ chuyển HSVA về lại TAND Q11.

Ngày 02/6/2017, TAND Q11 ra thông báo thụ lý vụ án số 109/2017/TLDS-ST. Hơn 2 tháng sau, TP Duyên lại ký QĐ "chuyển HSVA" đến TAND TPHCM để giải quyết do nguyên đơn yêu cầu hủy GCN số BE 803885. Tuy nhiên, sau đó, nguyên đơn đổi yêu cầu khỏi kiện, chỉ "hủy cập nhật" trên GCN số BE 803885 nên vụ án tiếp tục được TAND Q11 thụ lý và giao TP Lại Thị Thu Thủy giải quyết. TP Thủy đã ký 2 QĐ số 51 (ngày 22/02/2019) và 172 (ngày 29/5/2019) tìm lai lịch của nguyên đơn.

Phúc đáp QĐ số 51, ngày 04/3/2019, Công an P3Q11 có "phiếu cung cấp thông tin" xác định: "Nguyễn Thị Thu SN 1950". Phúc đáp QĐ số 172, ngày 13/6/2019, Chủ tịch UBND TP Vĩnh Long (tỉnh Vĩnh Long) Nguyễn Trung Kiên ký VB số 1124/UBND-NC, nêu: "Qua kiểm tra sổ bộ hộ tịch năm 1951 lưu tại Phòng Tư pháp TP.Vĩnh Long, hiện có số hiệu 157 ngày 07/01/1957 tên của bà Nguyễn Thị Thu sinh ngày 25/01/1951 (kèm trích lục khai sinh bản sao số 145/TLKS-BS ngày 16/6/2019)". VB này thể hiện sự bất thường, "lạ” nhất là sổ bộ hộ tịch năm 1951 nhưng số hiệu năm 1957 (?!). Với tài liệu mới này, bà Thu có đến 3 lần "chào đời" vào các năm 1950, 1951 và 1956 (?!).

Từ năm 2020 - 2021, vụ án được giao TP Nguyễn Mỹ Duyên giải quyết, tiếp tục xác định bà Thu SN 1956 như đơn khởi kiện. Đến năm 2002, vụ án lại được chuyển cho TP Bùi Tô Đông Đức giải quyết. TP Đức đã thay đổi nhân thân của nguyên đơn, xác định bà Thu "SN 1951" (?!). Tính ra, vụ án có đến 5 TP lần lượt tham gia giải quyết gồm 4 của TAND Q11 và 1 của TAND TPHCM.

Nhà đất 106B/119 Lạc Long Quân, P3Q11

Hoàn tất hồ sơ, TAND Q11 mở phiên tòa ngày 29/9/2023 với HĐXX do TP Đức ngồi ghế chủ tọa cùng 2 Hội thẩm Phan Văn Hòa và Khưu Hán Quang, xác định các bên đã hòa giải xong. Từ đó, TP Đức ký ban hành QĐ số 212/2023/QĐST-DS "công nhận sự thỏa thuận thành của các đương sự" (QĐ số 212), xác định: nhà đất 106B/119 là di sản thừa kế; ông Hiếu có nghĩa vụ thanh toán cho bà Thu 1/6 giá trị đất tương đương 972 triệu đồng. Trường hợp ông Hiếu vi phạm nghĩa vụ thanh toán thì nguyên đơn có quyền yêu cầu phát mãi nhà đất 106B/119 để trả cho bà Thu 972 triệu đồng; phần tiền còn lại được trả cho bà Châu Dung sau khi thanh toán các chi phí của thủ tục phát mãi.

Ông Hiếu bức xúc: "Ngày xét xử tôi lên cơn đau tim đột ngột nên không thể dự phiên tòa, chỉ có người đại diện tham dự. Tôi điếng hồn khi nghe báo tin "hòa giải thành". Từ đầu, nguyên đơn yêu cầu được hưởng 500 triệu đồng (½ giá trị nhà đất) tôi đã không đồng ý nên không thể nào chấp nhận tăng gần gấp đôi (1/6 giá trị đất) như QĐ số 212. Do đó, tôi đã có ngay "đơn kháng cáo" được TAND Q11 xác nhận ngày 03/10/2013, trước khi nhận được QĐ số 212".

Có căn cứ giám đốc thẩm

Nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thạc sĩ - Luật sư (ThS-LS) Nguyễn Nguyện Xuân Thảo - Giám đốc Công ty Luật Saigon Shield, nêu quan điểm: Có đầy đủ căn cứ để kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm (GĐT) đối với QĐ số 212, theo hướng tuyên hủy QĐ này do vi phạm nghiêm trọng về tố tụng lẫn nội dung.

Thứ nhất, về nhân thân của nguyên đơn: Đối với tranh chấp về thừa kế, thông tin về nhân thân vô cùng quan trọng để xem xét họ có đúng là người phù hợp để được chia thừa kế hay không. Theo yêu cầu của TAND Q11, UBND TP.Vĩnh Long và Công an P3Q11 đã xác định bằng VB về nhân thân của bà Thu có khác biệt lớn.

TAND Q11 chưa điều tra xác minh, làm rõ, kết luận bà Thu "SN 1950", bà Thu "SN 1951" và bà Thu "SN 1956" là cùng 1 người hay không. Quá trình tố tụng, có 4 TP đều xác định bà Thu "SN 1956"; trong khi TP Đức thì "phán" nguyên đơn "SN 1951" (?!). Việc sử dụng tài liệu, chứng cứ khác nhau về nhân thân của bà Thu để xử lý vụ án là không bảo đảm tính khách quan, chính xác. Chưa hết, địa chỉ "tổ 43/10, ấp Hải Tân, xã Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu" của bà Thu cũng chưa được xác minh có thật hay không?

Ngày 30/5/2025, TAND Cấp cao tại TPHCM có VB số 1388/GXN-DS-TANDCC "xem xét theo thủ tục GĐT", nội dung: TAND Cấp cao tại TPHCM nhận được đơn đề ngày 21/4/2025 của ông, bà Nguyễn Trung Hiếu, Bùi Ánh Loan nộp trực tiếp về việc đề nghị Chánh án TAND Cấp cao tại TPHCM xem xét theo thủ tục GĐT đối với QĐ số 212/2023/QĐST-DS ngày 29/9/2023 của TAND Q11 có hiệu lực pháp luật. TAND Cấp cao tại TPHCM sẽ tiến hành xem xét đơn đề nghị theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hơn 8 năm với hàng chục "biên bản hòa giải" được lập, không có bất cứ biên bản nào thể hiện bị đơn Nguyễn Trung Hiếu và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan như bà Bùi Ánh Loan, Châu Dung chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Các đương sự cho rằng QĐ số 212 xác định "tại phiên tòa, các đương sự đã đồng ý thỏa thuận..." là không đúng với ý chí của họ. Từ đó, xảy ra "chuyện lạ” ngay sau phiên tòa, cả ông Hiếu, bà Loan, bà Dung đồng loạt gửi đơn ngày 03/10/2023 "kháng cáo toàn bộ sự việc xét xử ngày 29/9", trước khi nhận được QĐ số 212.

Không chỉ khiếu nại theo trình tự GĐT, các đương sự liên tục có đơn tố cáo TP chủ toạ phiên tòa ra QĐ trái pháp luật, ghi nhận sai ý chí và sự thỏa thuận của họ. Vấn đề này cần được làm rõ ở giai đoạn GĐT.

Thứ ba, tại QĐ đưa vụ án ra xét xử số 132/2023/QĐXXST-DS ngày 21/8/2023 và QĐ hoãn phiên tòa số 106/2023/QĐST-DS ngày 12/9/2023 cùng một số VB khác, TP Đức đều căn cứ vào "HSVA thụ lý số 141/2015/TLST-DS ngày 28/5/2015". Tuy nhiên, tại QĐ số 212 cùng hàng loạt VB khác, TP Đức căn cứ "HSVA thụ lý số 109/2017/TLST-DS ngày 02/6/2017". Việc này vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Thứ tư, TAND Q11 thụ lý vụ án tranh chấp của bà Thu lộ dấu hiệu trái quy định của pháp luật. Bà Thu có 2 yêu cầu khởi kiện: "Chia di sản thừa kế" của cụ Sáo và "chia tài sản chung" của cụ Tư đối với nhà đất số 106B/119.

Hồ sơ thể hiện: Trước khi qua đời năm 2013, cụ Sáo lập HĐ tặng cho ông Hiếu toàn bộ nhà đất 106B/119 ngày 01/8/2008. Như vậy, tại thời điểm bà Thu khởi kiện ngày 28/5/2015, cụ Sáo không có di sản nào để lại.

Cụ Tư qua đời ngày 31/3/1990, tính đến ngày bà Thu nộp đơn tranh chấp 28/5/2015 thì thời hiệu khởi kiện đã không còn, căn cứ theo Điều 645 Bộ luật dân sự 2005 (thời hiệu khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế là 10 năm).

Nguyên đơn yêu cầu "chia tài sản chung" của cụ Tư cũng không có căn cứ vì không có bất kỳ VB nào xác định còn tài sản chung của cụ Tư chưa chia do các đồng thừa kế. Căn cứ khoản 2.4, Điều 2 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao, bà Thu không đủ điều kiện để khởi kiện chia tài sản chung.

Do thời hiệu chia thừa kế đã hết, bà Thu không đủ điều kiện khởi kiện nên TAND Q11 phải trả lại đơn khởi kiện của bà Thu theo quy định tại khoản 3, Điều 150 Bộ luật Dân sự 2015 và điểm b, khoản 1, Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Bình luận (0)

Lên đầu trang