BA LẦN HỖ TRỢ
Trong văn bản báo cáo gửi lãnh đạo TP, Chủ tịch UBND Q. Thủ Đức nêu rõ: Dự án Khu đô thị Hiệp Bình Phước (Vạn Phúc Riverside) do Công ty cổ phần Đầu tư địa ốc Vạn Phúc làm chủ đầu tư, quy mô hơn 198,5ha. Trong đó, có phần diện tích 10.847m2 đất “lúa” tại khu phố 5, P. Hiệp Bình Phước, Q. Thủ Đức của ông N.V.L.
Chủ đầu tư đã nhiều lần thỏa thuận với ông L. để bồi thường và thu hồi khu đất trên nhưng không đạt được thỏa thuận. Từ tháng 4-2011 đến tháng 7-2012, UBND Q. Thủ Đức đã ban hành 3 quyết định chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho ông L. Cụ thể:
Quyết định số 2233/QĐ-UBND ngày 26-4-2011 chi trả cho ông L. số tiền 9,899 tỷ đồng (làm tròn số). Trong đó, đất có giá 900.000 đồng/m2 bao gồm 150.000 đồng là đơn giá bồi thường đất trồng cây hàng năm theo phương án bồi thường được UBND TP phê duyệt; 750.000 đồng là đơn giá do UBND Q.Thủ Đức thống nhất yêu cầu chủ đầu tư hỗ trợ thêm cho ông L. cũng như các hộ dân có đất bị thu hồi trong dự án.
Theo thông báo ngày 20-6-2011 của Văn phòng UBND Q.Thủ Đức, chủ đầu tư tiếp tục hỗ trợ thêm 250.000 đồng/m2 đất cho các hộ dân trong dự án. Ông L. được nhận thêm 2,7117 tỷ đồng.
Để đẩy nhanh tiến độ dự án kéo dài nhiều năm, trên cơ sở kiến nghị của UBND Q. Thủ Đức cùng các sở ngành và Hội đồng thẩm định bồi thường TP, ngày 26-3-2012, UBND TP có văn bản số 1329/UBND-ĐTMT thống nhất việc điều chỉnh đơn giá bồi thường, hỗ trợ cho phù hợp với thời điểm. Cụ thể: Đất nông nghiệp trồng cây hàng năm giá 1,657 triệu đồng/m2 đối với 1.000m2 đầu tiên; diện tích còn lại giá 1,5 triệu đồng/m2.
Căn cứ văn bản trên, ngày 3-7-2012, UBND Q. Thủ Đức ban hành Quyết định 3536/QĐ-UBND “bồi thường, hỗ trợ bổ sung” cho ông L. số tiền 3,8162 tỷ đồng.
Như vậy, tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ cả ba đợt là 16,427 tỷ đồng nhưng ông L. không đồng ý nhận nên chủ đầu tư đã gửi toàn bộ vào ngân hàng.
Phối cảnh bến du thuyền dự án Vạn Phúc Riverside
Theo UBND Q. Thủ Đức, ông L. đưa ra đơn giá bồi thường là 4,5 triệu đồng/m2 và không đồng ý bàn giao mặt bằng; các đơn vị đã tổ chức nhiều buổi vận động, nhưng không đạt kết quả. Thực hiện chỉ đạo của UBND TP (theo tinh thần hai văn bản 4720/UBND-ĐTMT ngày 14-9-2009 và số 9569/VP-ĐTMT ngày 27-12-2010), ngày 19-9-2012, UBNDQ. Thủ Đức ra Quyết định số 5127/QĐ-UBND cưỡng chế thu hồi đất đối với ông L.
Ngày 18-10-2012, Chủ tịch UBNDQ.Thủ Đức ban hành Quyết định số 6036/QĐ-UBND, bác đơn khiếu nại của ông L. yêu cầu bồi thường 4,5 triệu đồng/m2 đất. Ngày 18-2-2014, Chủ tịch UBND TP ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 708/QĐ-UBND “công nhận và giữ nguyên Quyết định số 6036/QĐ-UBND”.
Sau khi có quyết định 708/QĐ-UBND, ông L. không tiếp tục khiếu nại hay khởi kiện. Đến ngày 20-7-2016, ông L. có đơn kiến nghị gửi các cơ quan chức năng; tiếp đến ngày 9-1-2017, ông này tiếp tục có đơn khiếu nại khẩn cấp. UBND TP đã chỉ đạo Thanh tra TP rà soát, kiểm tra vụ việc.
KẾT LUẬN CỦA CHỦ TỊCH UBND THÀNH PHỐ
Từ báo cáo của Thanh tra TP, ngày 13-4-2017 UBND TP có văn bản 2094/UBND-NCPC trả lời ông L., nêu rõ từng vấn đề cụ thể. Theo đó, ngày 10-1-2004, UBND TP ban hành Quyết định số 256/QĐ-UB, giao 1.985.824m2 đất cho Công ty Xây dựng và Phát triển kinh tế Quận 6 để bồi thường giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật chính Khu đô thị Hiệp Bình Phước. Thời điểm ban hành Quyết định 256/QĐ-UB, Luật Đất đai năm 1993 vẫn còn hiệu lực pháp luật, UBND Q. Thủ Đức áp dụng Nghị định số 22/1998/NĐ-CP để xây dựng phương án bồi thường số 1500/PABT được UBND TP phê duyệt ngày 9-11-2004, là đúng quy định pháp luật.
Tại thời điểm này ban hành Quyết định 256/QĐ-UB, việc thu hồi đất được thực hiện theo Luật Đất đai năm 1993; sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001. Pháp luật đất đai thời kỳ này không quy định ban hành quyết định thu hồi đất riêng cho từng hộ gia đình, cá nhân trong trường hợp đã có quyết định thu hồi đất của UBND TP. Điều này đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục khẳng định tại Công văn số 361/BTNMT-ĐĐ ngày 20-1-2008. Do đó, UBND Quận Thủ Đức không ban hành quyết định thu hồi đất riêng lẻ đối với hộ ông L. và các hộ dân trong dự án là đúng quy định.
Công ty Vạn Phúc là đơn vị nhận chuyển giao dự án từ Công ty Xây dựng và phát triển kinh tế Quận 6 để thực hiện xây dựng hạ tầng chung dự án và dự án thành phần (đầu tư xây dựng khu nhà ở) theo Quyết định số 5222/QĐ-UBND ngày 15-11-2006 “điều chỉnh, bổ sung” Quyết định số 256/QĐ-UB và các quyết định liên quan của UBND TP.
Khu đô thị Hiệp Bình Phước
Theo phương án bồi thường số 1500/PABT, giá bồi thường đất nông nghiệp là 150.000 đồng/m2 (trồng cây hàng năm) và 200.000 đồng/m2 (trồng cây lâu năm). Ngày 26-3-2012, UBND TP có văn bản số 1329/UBND-ĐTMT chấp thuận đề nghị Hội đồng Thẩm định bồi thường TP. Theo đó, việc tính giá bồi thường, hỗ trợ cho ông L. theo đơn giá 1,657 triệu đồng và 1,5 triệu đồng/m2 là đúng quy định. Như vậy, UBND Q. Thủ Đức ban hành Quyết định 3536/QĐ-UBND ngày 3-7-2012 là đúng quy định pháp luật.
Đối với Quyết định số 5127/QĐ-UB cưỡng chế thu hồi đất ngày 19-9-2012 của UBND Q. Thủ Đức: Theo điều 32 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13-8-2009 của Chính phủ, trường hợp người có đất bị thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng không chấp hành việc giao đất thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và thực hiện việc cưỡng chế. Trong hồ sơ thể hiện, Ban bồi thường giải phóng mặt bằng Q. Thủ Đức đã lập hồ sơ bồi thường, hỗ trợ cho ông L, trong đó có Quyết định số 3536/QĐ-UBND, nhưng ông không đồng ý nên toàn bộ số tiền bồi thường hỗ trợ đã được chủ đầu tư gửi vào ngân hàng.
Ban Bồi thường và chủ đầu tư vận động ông L. bàn giao mặt bằng, nhưng ông không chấp hành nên UBND Q.Thủ Đức đã áp dụng biện pháp hành chính, thực hiện cưỡng chế thu hồi đất.
Liên quan đến đơn khiếu nại của ông L. từ năm 2012 đến nay, nội dung chủ yếu là yêu cầu chủ đầu tư phải thỏa thuận, thương lượng đơn giá bồi thường hỗ trợ do ông đưa ra từ 4,2 triệu đồng/m2 trở lên. Đối với nội dung khiếu nại này, ngày 18-10-2012, Chủ tịch UBND Q. Thủ Đức đã xem xét giải quyết tại Quyết định số 6036/QĐ-UBND bác đơn khiếu nại của ông L. Ngày 18-2-2014, Chủ tịch UBND TP ban hành QĐ số 708/QĐ-UBND, công nhận và giữ nguyên Quyết định số 6036/QĐ-UBND.
Từ cơ sở trên, UBND TP xét thấy không có căn cứ pháp luật để thu hồi, hủy bỏ các quyết định bồi thường, hỗ trợ bổ sung, giải quyết khiếu nại, cưỡng chế thu hồi đất đối với ông L. Vụ việc không có tài liệu, chứng cứ, tình tiết mới để xem xét lại Quyết định số 708/QD-UBND của UBND TP. Do đó, UBND TP chấm dứt tiếp nhận xử lý đơn khiếu nại của ông L. có nội dung tương tự nêu trên.
Trao đổi với phóng viên Báo CATP, đại diện chủ đầu tư cho biết, mặc dù đã có văn bản kết luận của UBND TP nhưng trên tinh thần cầu thị, lắng nghe, chia sẻ, Công ty Vạn Phúc vẫn có những chính sách hỗ trợ phù hợp, tạo điều kiện cho các hộ dân bị giải tỏa ổn định cuộc sống, chấm dứt các khiếu nại, kiện tụng, để dự án sớm được hoàn tất.