Trong chiến dịch này, công tác binh vận – một phương thức đấu tranh chính trị nhằm lôi kéo, thuyết phục binh lính và sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng hòa – đã đóng vai trò quan trọng, góp phần làm suy yếu tinh thần và lực lượng đối phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng vũ trang cách mạng tiến công.
Vai trò của binh vận
Công tác binh vận là một hình thức đấu tranh chính trị, tập trung vào việc tuyên truyền, vận động, thuyết phục binh lính, sĩ quan và nhân viên trong hàng ngũ đối phương từ bỏ ý chí chiến đấu, quay về phía cách mạng hoặc ít nhất không chống lại lực lượng cách mạng. Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, công tác binh vận được Đảng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam xác định là một trong ba mũi giáp công chiến lược, cùng với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, công tác binh vận không chỉ nhằm làm suy yếu tinh thần chiến đấu của quân đội Sài Gòn mà còn góp phần giảm thiểu thương vong cho cả hai bên, đồng thời tạo điều kiện để lực lượng cách mạng nhanh chóng kiểm soát các vị trí then chốt. Binh vận được triển khai thông qua nhiều hình thức như tuyên truyền trực tiếp, phát thanh, truyền đơn, sử dụng tù binh, các lực lượng nội tuyến và thông qua các mối quan hệ gia đình, xã hội của binh lính Việt Nam Cộng hòa.

Nhân dân Sài Gòn diễu hành mừng thành phố được giải phóng. Ảnh tư liệu
Trên thực tế, sau khi Hiệp định Paris được ký kết (năm 1973), quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, để lại quân đội Sài Gòn trong tình trạng thiếu hụt viện trợ quân sự và kinh tế. Tinh thần của họ suy giảm nghiêm trọng, nhất là sau các thất bại liên tiếp trên chiến trường, đặc biệt là từ các chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng (tháng 3-1975). Nhiều binh lính mất niềm tin vào chính quyền Sài Gòn, cảm thấy bị bỏ rơi và mất ý chí chiến đấu. Trong bối cảnh đó, công tác binh vận trở thành một vũ khí sắc bén, khai thác tâm lý hoang mang, chán nản của họ. Các lực lượng cách mạng đã tận dụng tình hình này để đẩy mạnh tuyên truyền, kêu gọi binh lính Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí, đầu hàng hoặc tham gia nội ứng cho cách mạng.
Nhiều hình thức trong công tác binh vận
Công tác binh vận trong chiến dịch Hồ Chí Minh được triển khai với quy mô lớn, bài bản và đa dạng về hình thức. Chẳng hạn, tuyên truyền qua truyền đơn và phát thanh, với hàng vạn truyền đơn được rải xuống các vị trí đóng quân của quân đội Sài Gòn; nội dung truyền đơn nhấn mạnh chính sách khoan hồng của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cam kết đối xử nhân đạo với những người ra hàng, đồng thời kêu gọi binh lính Việt Nam Cộng hòa không tiếp tục chiến đấu cho một chính quyền đang sụp đổ. Trong khi đó, Đài Phát thanh Giải phóng cũng liên tục phát các chương trình tuyên truyền, kết hợp nhạc cách mạng với các thông điệp kêu gọi hòa bình và thất bại không thể tránh khỏi của chính quyền Sài Gòn.
Các tù binh Việt Nam Cộng hòa được đối xử nhân đạo, được cung cấp thức ăn, nước uống và chăm sóc y tế, sau khi được thả, đã trở thành “tuyên truyền viên” cho cách mạng. Họ kể lại cho đồng đội về sự đối xử tử tế của lực lượng cách mạng, từ đó làm lung lay ý chí chiến đấu của những người còn lại. Có trường hợp một số binh lính đào ngũ đã được lực lượng cách mạng thuyết phục quay lại đơn vị để kêu gọi đồng đội ra hàng. Nhờ đó, nhiều đơn vị quân đội Sài Gòn tại khu vực này đã buông súng mà không phải chiến đấu, giảm thương vong cho đôi bên.
Bên cạnh đó, lực lượng cách mạng rất thường xuyên sử dụng các mối quan hệ gia đình để tác động đến binh lính Việt Nam Cộng hòa. Các cán bộ binh vận thường liên lạc với gia đình của binh lính, thuyết phục họ viết thư hoặc gửi lời nhắn kêu gọi con em mình hạ vũ khí. Những lá thư này được chuyển đến binh lính thông qua các kênh bí mật hoặc rải cùng truyền đơn. Thí dụ, một số bà mẹ có con trai phục vụ trong quân đội Sài Gòn đã viết thư tay, bày tỏ nỗi nhớ thương và kêu gọi các con trở về; những lá thư này có sức thuyết phục lớn, khiến nhiều binh lính dao động, bỏ ngũ hoặc quyết định đầu hàng.
Đặc biệt, trong giai đoạn này, các lực lượng của ta đã chỉ đạo cơ sở nội tuyến phát huy đồng loạt thế mạnh và lực lượng kết hợp trong cao trào ba mũi giáp công đã thúc đẩy đầu hàng, làm tan rã, tê liệt nhiều đơn vị. Một số nội tuyến chiến lược đã được chỉ đạo hành động kịp thời để tạo điều kiện cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh và trọn vẹn.
Một số kết quả quan trọng của công tác binh vận
Công tác binh vận trong chiến dịch Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trước hết, là làm suy yếu tinh thần chiến đấu của quân đội Sài Gòn. Không có con số thống kê đầy đủ nhưng có hàng chục ngàn binh lính đã đào ngũ hoặc đầu hàng trước khi quân đội cách mạng tiến vào Sài Gòn. Riêng trong mấy ngày cuối tháng 4/1975, hàng ngàn binh lính tại các khu vực như Biên Hòa, Long Bình và Thủ Đức đã hạ vũ khí qua các biện pháp binh vận.
Nhờ công tác binh vận, nhiều trận đánh đã không cần diễn ra hoặc diễn ra với quy mô nhỏ hơn dự kiến. Điều này giúp giảm thiểu thương vong cho cả hai bên. Bên cạnh đó, việc nhiều đơn vị Việt Nam Cộng hòa đầu hàng hoặc rút lui đã mở đường cho các lực lượng cách mạng nhanh chóng tiến vào trung tâm Sài Gòn; đặc biệt, tại các khu vực như Dinh Độc Lập và Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, công tác binh vận đã góp phần khiến các lực lượng phòng thủ tại đây không tổ chức kháng cự quyết liệt.
Tính chung, trên toàn Miền, đã chỉ đạo 580 vụ hoạt động của cơ sở nội tuyến, trong đó có các đội công tác thuộc Ban Binh vận Trung ương Cục có 246 vụ; phần lớn tập trung ở vùng trọng điểm Sài Gòn - Gia Định; riêng Ban Binh vận Sài Gòn - Gia Định có 9 vụ.
Trong 246 vụ của các đội công tác thuộc Ban Binh vận Trung ương Cục, có 170 vụ cơ sở nội tuyến thúc đẩy đầu hàng và khởi nghĩa từ đại đội đến tiểu đoàn, 20 vụ tan rã chiến đoàn, 51 vụ đánh phá kho tàng hậu cứ và tàu hải quân địch, 5 vụ cơ sở hành động phục vụ yêu cầu chiến lược. Một trong những vụ tấn công nổi tiếng của cơ sở nội tuyến là sĩ quan Nguyễn Thành Trung ở sân bay Biên Hòa đã lái máy bay ném bom Dinh Độc Lập vào ngày 8-4-1975 đúng thời điểm, gây tác động lớn trong toàn bộ lực lượng của chính quyền Sài Gòn. Sau khi ra vùng giải phóng, ông tiếp tục lái máy bay A.37 chiếm được của địch dẫn đầu một đoàn A.37 ném bom sân bay Tân Sơn Nhất chiều 28/4/1975.

Phi đội Quyết thắng tại sân bay Thành Sơn, Phan Rang chiều 28/4/1975 sau khi tấn công sân bay Tân Sơn Nhất. Ảnh tư liệu
Trong Hải quân, nội tuyến đánh hỏng 2 tàu ở Bến Bạch Đằng, phá ụ nâng tàu của căn cứ Hải quân tại Sài Gòn, 1 tàu ở Tân Cảng, 1 tàu trên đường từ Sài Gòn ra Côn Đảo; đồng thời kết hợp với lực lượng vũ trang cách mạng đánh chiếm Bộ Tư lệnh Hải quân và bộ phận truyền tin nước ngoài; khởi nghĩa chiếm đảo Phú Quốc lấy 18 tàu, tiếp đó kêu gọi gần 40 tàu đang chạy ngoài khơi trở về.
Trong Sư đoàn 25 bộ binh, đã chỉ đạo cơ sở thiếu tá, chỉ huy trưởng tiểu đoàn một thuộc Trung đoàn 50 khởi nghĩa, làm tan rã Thiết đoàn 10, buộc 1 đơn vị thuộc Sư đoàn 25 đóng ở Đồng Dù đầu hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho mũi tiến quân của lực lượng vũ trang cách mạng vào Sài Gòn. Ngoài ra, cơ sở nội tuyến đã đánh giá các kho bom đạn ở Long Bình, Biên Hòa, Cát Lái, kết hợp tấn công đúng thời điểm.
Ngay sau giải phóng, toàn Miền đã chỉ đạo toàn ngành binh vận kịp thời kết hợp với quân sự và công an làm công tác đăng ký trình diện của binh lính sĩ quan chế độ Sài Gòn, thu gom vũ khí và học tập cải tạo. Kết quả đăng ký trình diện được hơn 876.000 người, trong đó có 721.359 binh lính và hạ sĩ quan, 40.212 sĩ quan (31 cấp tướng, 6.821 cấp tá…), 36.668 công an, cảnh sát, tình báo. Trong số này, trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định có 347.742 binh lính, sĩ quan tàn binh và 36.686 công an, cảnh sát, tình báo.
Công tác binh vận trong chiến dịch Hồ Chí Minh để lại nhiều bài học quý giá. Trước hết, phải khẳng định tầm quan trọng của đấu tranh chính trị. Công tác binh vận cho thấy sức mạnh của đấu tranh chính trị trong việc làm suy yếu đối phương mà không cần sử dụng vũ lực. Đây là một phương thức đấu tranh hiệu quả, đặc biệt trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Bên cạnh đó, công tác này đã thể hiện tính nhân văn của cách mạng. Chính sách khoan hồng và cách đối xử nhân đạo với tù binh, binh lính đầu hàng đã tạo nên hình ảnh một lực lượng cách mạng chính nghĩa, từ đó thu hút sự ủng hộ của quần chúng và làm lung lay ý chí của đối phương.
Ngoài ra, luôn cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng. Công tác binh vận chỉ đạt hiệu quả cao khi được phối hợp nhịp nhàng với các hoạt động quân sự và chính trị khác. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, sự kết hợp giữa tuyên truyền, tiến công quân sự và đấu tranh ngoại giao đã tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Có thể nói, công tác binh vận trong chiến dịch Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào đại thắng mùa xuân năm 1975. Thông qua các hình thức đa dạng, lực lượng cách mạng đã thành công trong việc làm suy yếu tinh thần và lực lượng của quân đội Sài Gòn, giảm thiểu thương vong và tạo điều kiện thuận lợi cho các mũi tiến công. Bài học từ công tác binh vận trong chiến dịch Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị lịch sử mà còn mang ý nghĩa thực tiễn trong việc xây dựng các chiến lược đấu tranh chính trị trong thời đại mới.