Bề dày lịch sử phật giáo xứ Đông
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu Công nguyên, theo cả hai hướng Bắc và Nam. Tại vùng đất xứ Đông - Hải Dương, Phật giáo nhanh chóng bén rễ, phát triển song hành cùng tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Phật giáo Hải Dương từ sớm đã hòa quyện với tín ngưỡng bản địa và tinh thần dân tộc, hình thành một nền Phật giáo đặc sắc, giàu tính nhập thế và nhân văn.
Dưới các triều đại từ Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đến Hậu Lê, Mạc, Nguyễn, Phật giáo ở Hải Dương được các vua chúa và Nhân dân sùng mộ. Những ngôi chùa cổ như Động Ngọ (xây từ thời Đinh), Côn Sơn (gắn với Thiền phái Trúc Lâm), Dừa (Diên Khánh tự), Quang Khánh, Long Đọi... không chỉ là nơi tu hành mà còn là trung tâm giáo dục, văn hóa và cả căn cứ kháng chiến.
Điểm nhấn rực rỡ trong lịch sử Phật giáo Hải Dương là sự hiện diện sâu sắc của Thiền phái Trúc Lâm - dòng thiền thuần Việt do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Với tinh thần “cư trần lạc đạo”, thiền phái này khẳng định một hướng tu hành gắn bó mật thiết với đời sống xã hội. Các vị thiền sư, trong đó có Pháp Loa (người Hải Dương) đã trở thành đỉnh cao trí tuệ và tâm linh đồng thời để lại di sản kiến trúc, bia ký, tượng thờ phong phú, hiện có giá trị như bảo vật quốc gia.
Tính đến nay, toàn tỉnh có 1.163 ngôi chùa với hàng vạn phật tử sinh hoạt thường xuyên. Các công trình tôn giáo không chỉ được trùng tu mà còn mở rộng, trở thành điểm đến văn hóa - tâm linh, thu hút đông đảo tín đồ và du khách. Phật giáo Hải Dương hiện diện với tinh thần nhập thế, góp phần xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh, giữ gìn bản sắc dân tộc đồng thời đồng hành cùng chính sách tôn giáo và phát triển của Nhà nước.

Tổ đình Đống Cao (Sếu), Tân Hưng, Hải Dương (cũ)
Những tăng sĩ khoác chiến bào
Giữa những năm tháng kháng chiến gian khổ, không ít tăng sĩ Phật giáo Hải Dương đã lựa chọn rời bỏ chốn thiền môn tĩnh lặng để bước vào chiến khu, trở thành chiến sĩ Cách mạng thực thụ. Họ “cởi áo cà sa - khoác chiến bào”, lấy tinh thần từ bi làm động lực phụng sự Tổ quốc, lấy lòng vô úy làm sức mạnh vượt qua khói lửa đạn bom.
Một trong những gương mặt tiêu biểu là Sư ông Thích Thiện Đức (tên thật Nguyễn Văn Bể) vốn là cậu bé mồ côi lớn lên trong chùa Diên Khánh (xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện). Năm 1946, hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo hội và chính quyền Cách mạng, ông đã gia nhập lực lượng vũ trang địa phương - Trung đội Bắc Hà, huyện Thanh Hà. Trong một trận phục kích tại ngã ba Kỳ Tây (Cẩm Chế), ông đã anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Sau ngày độc lập, sư ông được truy tặng danh hiệu Liệt sĩ, Huy chương Kháng chiến hạng Nhất, Bằng Tổ quốc ghi công và được vinh danh là người con ưu tú của quê hương.
Bên cạnh đó, nhiều tăng sĩ khác cũng tham gia vào các đội hình vũ trang. Đặc biệt, Hòa thượng Thích Thanh Hanh - người sau này giữ nhiều chức vụ lãnh đạo trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) - từng là Tiểu đội trưởng Đội Tăng già cứu quốc tại Chiến khu Đông Triều. Ngài cùng đồng đội luyện tập quân sự, nhận nhiệm vụ trực tiếp tại khu vực Trường bay Bạch Mai - Hà Nội, thuộc “Đệ tứ chiến khu” - nơi được xem là trọng điểm kháng chiến miền Bắc thời kỳ đầu chống Pháp.
Những tiếng chuông chùa đã hòa cùng tiếng trống trận, lời kinh tụng sớm chiều đã chuyển hóa thành lời hịch Cách mạng. Hình ảnh tăng sĩ Hải Dương không chỉ gợi nhớ sự từ bi, nhẫn nhục, mà còn là biểu tượng của khí phách, kiên cường, là “người lính không quân hàm” trên mặt trận giữ nước và giữ đạo.

Thầy Thích Thanh Vân chụp ảnh cố Hòa thượng Thích Minh Luân
Những nhà lãnh đạo xuất thân từ cửa thiền
Bên cạnh vai trò trực tiếp chiến đấu, nhiều tăng sĩ Phật giáo Hải Dương còn đảm nhiệm những trọng trách lãnh đạo trong lòng phong trào Cách mạng. Họ không chỉ phụng sự giáo pháp mà còn hiến thân cho lý tưởng xây dựng đất nước, trở thành cầu nối giữa đạo và đời, giữa tín ngưỡng và chính trị.
Hòa thượng Thích Minh Luân, trụ trì chùa Đại Tỉnh (Tứ Kỳ), là một trong những nhà sư tiên phong trên con đường phụng sự Cách mạng. Ngài là Tổ trưởng Tổ Việt minh bí mật, sau làm Trưởng ban Cứu tế huyện Tứ Kỳ trước khi đảm nhận vai trò Chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc huyện Gia Lộc. Không dừng lại ở phong trào địa phương, Hòa thượng còn trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1947 - hành động vô cùng can đảm trong thời kỳ khủng bố trắng. Ngài tổ chức đào hầm trong chùa, nuôi giấu cán bộ, tiếp tế lương thực và là người truyền cảm hứng cho phật tử vùng quê đứng lên kháng chiến.
Hòa thượng Thích Nguyên Sinh, một trong những trụ cột của Giáo hội giai đoạn đầu thành lập, đã được bầu làm Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1955 và từng là Phó Tổng Thư ký Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam. Ông gia nhập Đảng từ năm 1948, hoạt động trong Mặt trận Việt minh, chuyên vận động tăng ni yêu nước trên khắp miền Bắc. Những hoạt động của ông đã đặt nền móng cho việc hình thành một Giáo hội Phật giáo thống nhất toàn quốc về sau.
Sự xuất hiện của các tăng sĩ trong vai trò lãnh đạo cho thấy một giai đoạn đặc biệt của Phật giáo Việt Nam, khi đạo pháp không chỉ là nơi quy ngưỡng tinh thần mà còn là động lực tinh thần trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Những tăng sĩ ấy đã đặt đôi chân của mình trên cả hai con đường: đường đạo và đường đời, hướng đến mục tiêu tối thượng - hòa bình và tự do cho dân tộc.
Khi nơi tu tập trở thành căn cứ Cách mạng
Nếu trong lịch sử, chùa là nơi tu học và hành đạo, thì trong kháng chiến, nhiều ngôi chùa ở Hải Dương đã trở thành những “pháo đài mềm” - nơi nuôi giấu cán bộ, trung chuyển tài liệu, truyền tải mệnh lệnh và là hậu phương an toàn cho các đơn vị chủ lực.
Chùa Đại Tỉnh (Tứ Kỳ), dưới sự trụ trì của Hòa thượng Minh Luân, đã trở thành trụ sở Việt minh xã Hoàng Diệu. Trong chùa có hầm bí mật, hệ thống liên lạc bằng tiếng mõ, tiếng chuông được mã hóa. Khi bị địch khám xét, các tăng sĩ chỉ cần mở kinh ra tụng, mọi tài liệu đều được giấu trong các pho tượng hoặc dưới nền gạch.
Chùa Dừa (Diên Khánh tự) là một trung tâm đào tạo tăng sĩ yêu nước. Nơi đây từng tổ chức huấn luyện về chính trị, y tế, cứu thương và trở thành địa điểm trú ẩn cho nhiều cán bộ cấp cao từ Hà Nội di chuyển về chiến khu.
Chùa Côn Sơn, nơi gắn liền với Thiền phái Trúc Lâm, đã được các tăng sĩ phục dựng giữa chiến tranh. Nhờ sự đồng lòng của các Hòa thượng Minh Luân, Nguyên Sinh, Thanh Hanh, Thiện Kỳ…, chùa không chỉ phục hồi cảnh quan mà còn tổ chức các lễ cầu siêu, tiếp tế cho bộ đội, hỗ trợ người dân tị nạn. Côn Sơn trong kháng chiến không chỉ là biểu tượng lịch sử - văn hóa, mà còn là ngọn lửa tinh thần kháng chiến của Nhân dân vùng Đông Bắc.
Ở Hải Dương, chùa không bị tách biệt khỏi xã hội, mà trở thành một phần của cuộc kháng chiến, là nơi kết tinh sức mạnh văn hóa - tín ngưỡng - lòng yêu nước.
Vận động quần chúng gìn giữ chánh pháp
Trong chiến tranh, khi xã hội còn tồn tại tình trạng mê tín, khi địch dùng tôn giáo làm công cụ chia rẽ, thì các tăng sĩ Hải Dương đã thể hiện bản lĩnh trí tuệ và đạo đức sáng ngời trong việc chấn hưng Phật pháp chân chính, bài trừ dị đoan, củng cố lòng tin vào Cách mạng.
Hòa thượng Minh Luân từng giữ vai trò Trưởng ban vận động cải tiến lễ nghi Phật giáo, phát động Phong trào “Phật giáo hiện đại hóa”, vận động các chùa bỏ những nghi thức lạc hậu, xóa bỏ mê tín và hướng đến đạo Phật nhập thế - phụng sự con người.
Nhiều tăng sĩ đã tổ chức lễ cầu siêu cho các Thánh tử đạo Phật giáo miền Nam năm 1963, thể hiện tiếng nói phản kháng chống lại đàn áp tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Họ soạn sách báo, in tài liệu, chuyển vào miền Nam để động viên tinh thần tăng ni đấu tranh vì quyền tự do tín ngưỡng.
Bằng tâm thế bình tĩnh, hiểu đạo, hiểu đời, các tăng sĩ Hải Dương đã không để đạo bị lợi dụng, không để chùa trở thành công cụ tuyên truyền sai lệch. Họ giữ được bản sắc Phật giáo Bắc tông giữa những thử thách lớn, là ngọn đuốc soi đường cho cộng đồng phật tử yêu nước.
Hành trình vun trồng tăng tài thời bình
Sau ngày đất nước thống nhất, những tăng sĩ từng lăn lộn giữa chiến khu đã trở về với chốn tổ, tiếp tục hành đạo và đảm nhận vai trò đào tạo thế hệ kế thừa.
Hòa thượng Minh Luân giữ chức Hiệu trưởng Trường Cơ bản Phật học Hải Dương, mở lớp giảng Tam tạng, tổ chức an cư kiết hạ, truyền giới. Ngài vừa là người thầy vừa là người truyền cảm hứng về tinh thần yêu nước, đạo hạnh.
Hòa thượng Thiện Kỳ là Hiệu phó đồng thời giữ vị trí Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni tỉnh, tổ chức giảng dạy về giới luật, kinh điển, đặc biệt chú trọng đạo đức của người tu sĩ trong thời kỳ mới.
Hòa thượng Thanh Hanh sau thời gian hoạt động tại Chiến khu Đông Triều và Hà Nội đã trở về làm Hiệu trưởng Trường Phật học Hưng Yên đồng thời là Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN, người trực tiếp xây dựng Chương trình đào tạo tăng tài toàn quốc.
Từ những người từng “đội mũ tai bèo”, họ trở thành các bậc chân sư, hun đúc thế hệ tăng sĩ thời bình - những người không chỉ biết trì tụng mà còn biết gánh vác trách nhiệm xã hội, tiếp nối truyền thống nhập thế của Phật giáo Hải Dương.