Báo động về an ninh nguồn nước ở Đồng bằng sông Cửu Long (kỳ 1)

Thứ Bảy, 16/11/2019 15:44

|

(CATP) Theo kết quả khảo sát của các cơ quan chuyên môn, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang chịu tác động của biến đổi khí hậu. Hàng trăm đập trên dòng sông Mê Kông, sụt lún đất, suy giảm mạch nước ngầm, các nguồn chất thải trong sinh hoạt, sản xuất... đang đe dọa an ninh nguồn nước của vùng sông nước này. Vùng đất Chín Rồng đang đứng trước cảnh báo đỏ về nguồn nước bị ô nhiễm và nhiễm mặn.

NGUỒN NƯỚC LẪN CHẤT LƯỢNG ĐỀU SỤT GIẢM

Theo báo cáo của Trung tâm Quy hoạch và điều tra tài nguyên nước quốc gia, nguồn nước ĐBSCL rất phong phú, chiếm 57% tổng lượng của cả nước, với tổng lượng dòng chảy năm trung bình nhiều năm khoảng 500 tỷ mét khối. Trong đó, có đến 475 tỷ mét khối từ nước ngoài, nội sinh chỉ khoảng 25 tỷ mét khối (chiếm 5% tổng lượng dòng chảy). Số liệu từ Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT), ĐBSCL có tổng diện tích 3,94 triệu héc-ta, dân số 17,5 triệu người, chiếm 12% diện tích tự nhiên và 20% dân số cả nước.

Chất lượng nước đang bị đe dọa

Đây là vùng có sản lượng nông nghiệp đứng đầu Việt Nam và lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Quy hoạch cấp nước vùng, dự báo tổng nhu cầu sử dụng nước đến năm 2020 cần khoảng 1,97 triệu m3/ngày, năm 2025 cần khoảng 2,65 triệu m3/ngày, đến năm 2030 con số đó là 3,27 triệu m3/ngày. Thế nhưng việc cung cấp nước sạch cũng mới chỉ bảo đảm từ 60 - 65% dân số đô thị. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều ở khu vực nông thôn. Nguồn nước cung cấp cho khu vực nông thôn đang phải đối mặt với 2 vấn đề lớn: nhiễm mặn và ô nhiễm. Đặc biệt, ô nhiễm mặt nước cần cảnh báo sớm.

Công an TP.Cần Thơ bắt quả tang một doanh nghiệp xả thải bẩn ra sông Hậu

Tính đến nay, toàn vùng ĐBSCL có khoảng 37 khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) tại 12 tỉnh, thành đang hoạt động. Hầu hết các KCN, CCN tập trung ở ĐBSCL đều nằm dọc tuyến sông Hậu và sông Tiền, hoạt động trong lĩnh vực chế biến thủy sản đông lạnh xuất khẩu. Tỷ lệ KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung trên địa bàn các tỉnh, thành trong vùng là 89%. Chỉ 17/52 CCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung (chiếm tỷ lệ 33%).

Như vậy, một lượng đáng kể nước thải không qua xử lý hoặc xử lý không đạt tiêu chuẩn vẫn xả ra môi trường mỗi ngày. Đây là một trong những nguyên nhân khiến tài nguyên nước bề mặt trên sông Tiền, sông Hậu và các cửa sông thông ra biển... tại ĐBSCL đã có các dấu hiệu nhiễm bẩn chất hữu cơ và vi sinh. Quan trắc môi trường nước cho thấy các chỉ tiêu bị nhiễm bẩn là: BOD, COD, Coliform, H2S, NH4, phèn sắt...

Cạnh đó, ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL ngày càng nghiêm trọng hơn. Việc thâm canh tăng vụ trong trồng trọt, nuôi trồng thủy sản đã bộc lộ mặt trái: gây ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, sụt lún đất, suy giảm mạch nước ngầm..., đang gây áp lực lớn lên môi trường, nguy cơ lây lan dịch bệnh.

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, hầu hết nông dân trồng lúa đều sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nhiều hơn mức được khuyến nghị. Trung bình mỗi năm có khoảng 1.790 tấn thuốc diệt ốc sên, 210 tấn thuốc diệt cỏ, 1.224 tấn thuốc trừ sâu và 4.245 tấn thuốc diệt nấm được sử dụng dư thừa trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Chỉ riêng An Giang và Kiên Giang (2 tỉnh sản xuất gạo lớn nhất vùng này), nông dân trồng lúa sử dụng phân bón nhiều hơn 20 - 30% so với mức khuyến cáo. Lượng phân bón hóa học, thuốc BVTV dư thừa là một trong những nguyên nhân gây suy giảm chất lượng nước mặt trong khu vực.

Hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng đang là nguồn gây ô nhiễm môi trường cục bộ trên các sông vùng ĐBSCL. Toàn vùng có diện tích nuôi thủy sản nước ngọt, nước mặn là hơn 685.800 héc-ta (bằng gần 60% của cả nước). Chỉ riêng An Giang đã có 102 cơ sở nuôi trồng thủy sản phát sinh nước thải từ 1.000 - 70.000 m3/ngày đêm. Hàng năm, quá trình vệ sinh, nạo vét ao nuôi cũng là nguồn gây ô nhiễm chính. Chất thải ao nuôi công nghiệp cũng là nguồn có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh thủy sản phát sinh trong môi trường nước.

Trong khi đó, hiện nay vấn đề xử lý nguồn bùn thải, chất thải nuôi trồng thủy sản còn rất hạn chế, chưa đáp ứng các yêu cầu quy chuẩn môi trường theo quy định. Nhất là nước thải từ nuôi trồng thủy sản thường không được xử lý hoặc chỉ lắng sơ bộ rồi thải trực tiếp ra môi trường, gây tác động đáng kể đến chất lượng nước mặt. Sự cố tôm, cá chết do bệnh thường xảy ra, nếu không kiểm soát tốt sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nước mặt.

Mực nước ngầm giảm

Theo Hội Địa chất thủy văn Việt Nam, mực nước ngầm vùng ĐBSCL đã bị sụt giảm khoảng 15m. Nếu như trước đây, giếng khoan cần độ sâu khoảng 100m là có thể khai thác được nguồn nước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thì nay phải khoan sâu gấp đôi. Nghiêm trọng hơn, tỷ lệ lớn nguồn nước ngầm ở vùng này bị nhiễm mặn, nhiễm hóa chất, không sử dụng được. Nguyên nhân được các cơ quan chuyên môn xác định do hậu quả của việc khai thác nước ngầm tràn lan.

Sở TNMT tỉnh Cà Mau cho biết, số giếng khoan trong tỉnh hiện nay đã hơn 138.080 cái, lưu lượng nước khai thác khoảng 400.000m3/ngày đêm. Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn tỉnh Sóc Trăng hiện có hơn 80.000 giếng khoan, trong đó chỉ riêng TX.Vĩnh Châu là hơn 22.000 giếng.

Nhiều giếng nước ở An Giang cạn kiệt, báo động mực nước ngầm sụt giảm nghiêm trọng

Viện Địa chất Na Uy vừa công bố nghiên cứu cho thấy, do khai thác nước ngầm quá mức trong 15 năm qua, hiện tượng sụt lún đang diễn ra rất nhanh trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Theo ông Andreas Renck (đại diện Viện Khoa học địa chất và tài nguyên Liên bang Đức tại Việt Nam), những quan sát gần đây từ vệ tinh của Liên minh châu Âu cho thấy, ĐBSCL đang bị "chìm" xuống trung bình khoảng 11 mm/năm, do khai thác nước ngầm không theo quy hoạch. Ở một số nơi, tốc độ sụt lún diễn ra nhanh hơn so với mực nước biển dâng, có thể lên đến 50 mm/năm. Nếu không có giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề trên thì đời sống, sinh kế của hàng chục triệu dân trong khu vực sẽ bị đe dọa.

Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (Trường Đại học Cần Thơ) cho rằng, mỗi năm mực nước ngầm của vùng ĐBSCL sụt giảm khoảng 40cm, kéo theo lún sụt mặt đất, tạo điều kiện cho nước biển dâng cao, mặn xâm nhập sâu. Hiện mực nước ngầm trên địa bàn TP.Cần Thơ liên tục giảm do khai thác để phục vụ sinh hoạt. Tuy lưu lượng nước ngầm vẫn còn ở ngưỡng cho phép, nhưng mực nước tĩnh bị giảm đáng kể so với trước đây.

Các tỉnh vùng ven biển cũng đang thấp thỏm lo âu về nguồn nước ngầm nhiễm mặn. Mỗi năm, mực nước ngầm sụt giảm từ 20 - 30cm do lạm dụng trong khai thác để phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Việc khai thác nước ngầm nhiều, khi các giếng khoan hư hỏng thì không được trám, lấp đúng quy trình cũng khiến nguồn nước bị ô nhiễm do nước mặt dẫn vào.

"Một trong những chỉ tiêu đánh giá sự ổn định của nguồn nước là thời hạn phục hồi nguồn nước. Đối với dòng chảy trên mặt, thời gian đó khoảng 16 ngày đêm, còn đối với dòng ngầm phải mất đến 1,5 nghìn năm. Một khi nguồn nước ngầm bị cạn kiệt thì khả năng phục hồi vô cùng khó" - một cán bộ Hội Địa chất thủy văn cảnh báo.

Tiến sĩ Nguyễn Hiếu Trung - Viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu, Trường Đại học Cần Thơ:

Có thể lợi dụng địa hình tự nhiên của các tiểu vùng trũng để tích trữ nước ngọt như "Tứ giác Long Xuyên", Đồng Tháp Mười và bán đảo Cà Mau. Ngoài ra, ĐBSCL có hệ thống kênh rạch chằng chịt, đa số đều có hệ thống cống kiểm soát mực nước, do đó hệ thống này rất thuận lợi cho việc chứa nước.

Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Hồng Tiến - nguyên Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng:

Trước mắt, cần ưu tiên khai thác, sử dụng nguồn nước mặt từ hệ thống sông Tiền và sông Hậu cung cấp cho nhu cầu của người dân. Từng bước giảm khai thác nguồn nước ngầm quy mô vừa và lớn ở các khu vực có nguồn nước mặt thuận lợi hoặc có hệ thống cấp nước quy mô vùng liên tỉnh

(Còn tiếp...)

Bình luận (0)

Lên đầu trang