Hướng dẫn an toàn phòng cháy, chữa cháy khi sử dụng xăng sinh học E10:

Bài cuối: Trang bị phương tiện, chất chữa cháy tại cơ sở sử dụng xăng E10

Thứ Năm, 20/11/2025 07:49

|

(CATP) Bắt đầu từ ngày 01/8/2025, Hà Nội, Hải Phòng và TPHCM đã thí điểm bán xăng E10 - loại nhiên liệu sinh học pha 10% ethanol vào xăng khoáng. Đây là bước đầu tiên trong lộ trình chuyển đổi toàn quốc sang nhiên liệu xanh, dự kiến bắt đầu từ năm 2026. Xăng sinh học E10 được xem là giải pháp quan trọng nhằm giảm phát thải CO2, thúc đẩy ngành nông nghiệp ethanol và đa dạng hóa nguồn cung năng lượng. Theo lộ trình của Chính phủ, xăng sinh học E10 sẽ từng bước thay thế xăng khoáng trên thị trường.

Để hoạt động PCCC đạt hiệu quả đòi hỏi phải đồng bộ các hoạt động từ khâu phòng ngừa, cụ thể: cần chọn đúng loại chất tạo bọt chữa cháy, đúng thiết bị, cấu hình và xác nhận đã được đánh giá vận hành tốt theo hệ thống. Với nhiên liệu có thành phần ethanol như xăng E10, lựa chọn bắt buộc là phải trang bị chất tạo bọt chữa cháy kháng cồn (AR-alcohol - resistant). Hiện nay, các chất tạo bọt nhóm này gồm 2 họ chính: AR-AFFF (bọt tạo màng kháng cồn) và AR-SFFF/F3-AR (bọt tổng hợp không fluor nhưng vẫn kháng cồn). Không SD chất tạo bọt thông thường để dập lửa đối với các đám cháy liên quan đến ethanol (trong đó có xăng E10), do ethanol có thể hấp thụ nước trong bọt thông thường (AFFF), làm mất màng phim và khiến bọt sụp nhanh, khó duy trì hiệu ứng bao phủ bề mặt đồng thời ngăn bay hơi tạo hỗn hợp dễ cháy.

Khi nghiệm thu hệ thống chữa cháy bằng bọt, theo tiêu chuẩn UL162 dành cho bọt giãn nở thấp có quy định đánh giá hiệu năng chữa cháy của hệ thống chữa cháy bằng bọt (hóa chất và thiết bị) đồng thời hướng dẫn cơ chế kiểm tra, thử nghiệm, đánh giá định kỳ để bảo đảm tính ổn định của hệ thống. Trong các mô tả kỹ thuật và tài liệu hướng dẫn vận hành, yêu cầu thử nghiệm điển hình là phép thử khay chứa Heptan/Ethanol 50 ft² (4,65m²), cho nhiên liệu cháy tự do 60s, sau đó phun bọt dập lửa ở cường độ phun khoảng 1,63 L/m² /phút.

Nâng cao kỹ năng ứng phó, ý thức phòng ngừa cháy, nổ và bảo đảm an toàn

Cùng với lựa chọn chất tạo bọt, các cơ sở kinh doanh SD xăng E10 cần hoàn thiện quy trình "vệ sinh công nghệ": tương thích vật liệu với E10 (có tính ăn mòn); duy trì hệ thống nối đất - đẳng thế và kiểm soát vận tốc nạp/xả để giảm rủi ro tĩnh điện; có hệ thống thông gió/thu hồi hơi vì E10 có thể bay hơi mạnh hơn trong những thời điểm nhất định; thiết lập quy trình quản lý nước xâm nhập, hấp thụ vào xăng E10, quản lý hiện tượng tách pha trong bồn nhiên liệu (làm thay đổi đặc tính cháy của nhiên liệu trong bồn chứa). Như vậy, thiết kế hệ thống chữa cháy tự động bằng bọt phải bảo đảm cung cấp đúng chủng loại, đủ lượng dung dịch chữa cháy theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật do chủ đầu tư công bố áp dụng trong quá trình thiết kế hệ thống.

Đối với đám cháy xăng E10, nguyên tắc đầu tiên khi tiếp cận hiện trường là nhận diện đúng loại nhiên liệu đang cháy. Nếu có căn cứ xác định đám cháy liên quan đến xăng sinh học hoặc khi chưa xác định chắc chắn, lựa chọn an toàn là dùng chất tạo bọt kháng cồn vì phù hợp với cả loại nhiên liệu thông thường và nhiên liệu sinh học. Dù thành phần xăng E10 chủ yếu là hydrocarbon, nhưng chỉ 10% ethanol đã đủ làm thay đổi hành vi bề mặt - nhất là khi có nước lẫn vào, gây tách pha.

Đối với đám cháy bề mặt (tràn trên nền) dùng bình bột, CO2 cho đám cháy nhỏ; dùng bọt AR-AFFF cho đám cháy mặt phẳng rộng, đặc biệt nếu nhiên liệu có dấu hiệu hòa tan với nước. Nước phun sương dùng để làm mát vùng chứa liền kề. Đối với xe bồn hay bồn chứa lớn phối hợp phong tỏa, làm mát bằng nước phun sương từ khoảng cách an toàn, dùng foam AR-AFFF để kiểm soát bề mặt khi phù hợp. Chuẩn bị đường thoát cho người tham gia chữa cháy do khả năng phát thải hơi nặng.

Xăng E10 được sử dụng tại nhiều quốc gia trong những năm qua

Ưu tiên phương pháp phun nhẹ đối với kỹ thuật phun bọt - gentle application, raindown, bankin/rollon (không dùng lăng phun áp lực cao để phun xả trực tiếp vào bề mặt nhiên liệu cháy) giúp bọt tiếp cận bề mặt êm, hạn chế khuấy trộn. Mục tiêu là hình thành nhanh lớp bọt ổn định (màng polymer đối với ARAFFF hoặc lớp mảng bọt bền đối với ARSFFF) để ức chế hơi và ngăn ngừa tiếp xúc oxy. Nếu phun mạnh trực diện thì tia này có thể xuyên thủng lớp bọt, khuấy nhiên liệu và làm sụp hiệu quả.

Về tỉ lệ pha, đa số sản phẩm chất tạo bọt chữa cháy bên rượu khuyến nghị tỉ lệ trộn 3%. Cường độ phun và thời gian phun cần bám tài liệu kỹ thuật của nhà sản xuất và tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật lựa chọn áp dụng trong thiết kế; với đám cháy nhiên liệu chảy tràn, mức tham chiếu để phun là 0,10 gpm/ft² (~4,1 LPM/m2) trong tối thiểu 15 phút giúp chỉ huy ước lượng nhanh nhu cầu bọt - nước ở giai đoạn đầu. Trong mọi trường hợp, không trộn lẫn các chất tạo bọt chữa cháy khi nhà sản xuất không cho phép; sự tương kỵ có thể gây đông tụ, tắc đường ống và sai lệch tỉ lệ trộn.

Việc sử dụng xăng E10 sẽ góp phần thực hiện cam kết Net Zero

Trang bị thiết bị bảo hộ cá nhân phù hợp: mặt nạ phòng độc khi chiến sĩ chữa cháy vào vùng có hơi, áo chống cháy, găng tay chống hóa chất. Huấn luyện đặc thù: diễn tập tình huống tràn E10, bơm/chuyển giao, xử lý rò rỉ nhỏ, sử dụng bọt AR-AFFF và kỹ thuật phun bọt.

Trên thị trường hiện có 2 nhóm chất chữa cháy hiệu quả với xăng E10: ARAFFF truyền thống - hiệu quả, quen dùng, tạo màng trên hydrocarbon, có polymer bảo vệ trên polar và ARSFFF/F3AR - thế hệ chất chữa cháy không fluor, đang được nhiều cơ sở cân nhắc để giảm thiểu vi phạm quy định về hạn chế hóa chất chứa fluor. Ở cả hai nhóm, điều quan trọng vẫn là sản phẩm phải được thử nghiệm/niêm yết theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và có bảng khuyến nghị thiết bị - ứng dụng rõ ràng.

Bài 1: Đặc điểm xăng sinh học - xăng E10
 

Bình luận (0)

Lên đầu trang