Dấu hiệu cấu kết, ngụy tạo chứng cứ
Như Chuyên đề CATP đã phản ánh, "nhân vật chính" dẫn đến vụ án là vợ chồng ông Nguyễn Văn Ẩn (SN 1957) và bà Đỗ Thị Gái (SN 1957, cùng ngụ ấp An Bình, xã An Tịnh, H.Trảng Bàng; nay là KP.An Bình, P.An Tịnh, TX.Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh). Ông Ẩn bị tai nạn giao thông, mất ngày 30/01/2020; còn bà Gái theo "chầu ông bà” ngày 12/5/2021.
Gia đình ông Ẩn có tất cả 8 anh chị em (ACE) ruột, trong đó, người chị cả đã mất. Thân sinh của họ là cụ Nguyễn Văn Sách (SN 1918, mất 1985) và cụ Nguyễn Thị Khỏi (SN 1920, mất năm 2018). Dù có đông ACE nhưng ông Ẩn dùng thủ đoạn gian dối, ngụy tạo bằng chứng là "con duy nhất" nhằm chiếm hưởng toàn bộ 2 khu đất 16.166m2 của cha mẹ để lại tại ấp An Bình.
Ngày 23/7/2012, ông Ẩn viết đơn xin xác nhận là "con duy nhất". Trưởng ấp An Bình lúc đó là ông Nguyễn Văn Trụ biết rõ ông Ẩn có đông ACE, nhưng lại cố ý ký xác nhận ngày 23/7/2012, nội dung: "Ông Ẩn nêu trong đơn là đúng" (?!). Phó Chủ tịch UBND xã An Tịnh Phan Thị Bạch Yến cũng "tình thương mến thương", đặt bút ký ngày 24/7/2012, khẳng định: "Đơn xin xác nhận nêu trên là đúng" (?!).
Sau khi được "ông ấp, bà xã” xác nhận theo ý muốn, ông Ẩn sử dụng chứng cứ ngụy tạo để lập văn bản "thỏa thuận phân chia di sản thừa kế" (TTPCDSTK) ngày 27/8/2012, nội dung: Cụ Sách mất 1985, để lại di sản là 9.424,4m2 đất theo giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất (QSDĐ) số 00617 năm 1993. Vợ chồng cụ Sách có người con duy nhất là ông Ẩn nên cụ Khỏi và ông Ẩn thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Cụ Khỏi được thừa hưởng toàn bộ di sản nêu trên. Ông Ẩn cam kết: Văn bản TTPCDSTK khai đúng sự thật, không bỏ sót người được thừa kế. Nếu có, thì văn bản này vô hiệu.
Đơn của ông Ẩn được Trưởng ấp và Phó Chủ tịch xã An Tịnh xác nhận là "con duy nhất"
Văn bản TTPCDST vừa ký xong, ông Ẩn lập tiếp hợp đồng (HĐ) "tặng cho QSDĐ", chuyển toàn bộ 9.424,4m2 đất từ cụ Khỏi sang ông Ẩn. Ngày 23/10/2012, ông Ẩn ký HĐ "tặng cho" toàn bộ 9.424,4m2 đất cho con trai Nguyễn Thanh Sang (SN 1981).
Sau khi ông Ẩn qua đời vì tai nạn, bà Gái bất ngờ trưng ra tờ "di chúc" do cụ Khỏi lập ngày 04/4/2013, lúc này đã 93 tuổi, nội dung: "Sau khi tôi qua đời, con tôi là Nguyễn Văn Ẩn sẽ được thừa hưởng "di sản thừa kế" do tôi để lại là 6.741,6m2 đất theo GCN số H04472 ngày 18/4/2008".
Với "di chúc" cùng văn bản TTPCDSTK, ông Ẩn đã "ẵm" trọn 16.166m2 đất! Cụ Khỏi quy tiên ngày 22/01/2018, nhưng ông Ẩn "giấu kín" tờ "di chúc" cho đến khi qua đời như một "bí ẩn".
Khởi kiện tranh chấp với 6 ACE của chồng không bao lâu thì bà Gái qua đời. Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà Gái gồm các ông, bà Nguyễn Thanh Sang, Nguyễn Ngọc Quý và Nguyễn Thanh Trọng (3 con của ông Ẩn - bà Gái).
Đại diện 6 ACE, bị đơn Nguyễn Ngọc Ánh (SN 1954, ngụ TP.Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh) có đơn phản tố, yêu cầu tòa hủy các giao dịch dân sự; chia 2 phần đất do cha mẹ để lại cho 8 ACE theo quy định pháp luật. Các ACE đều thống nhất theo yêu cầu của ông Ánh.
Ngày 21/9/2020, vợ chồng bà Quý ký HĐ chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thành Chí (SN 1964, ngụ H.Đức Hòa, tỉnh Long An) hai phần đất 4.722,9m2 và 307m2 (thuộc khu đất 9.424,4m2) với giá 6 tỷ đồng nhưng HĐ ghi 500 triệu.
Căn nhà hương hỏa bị tòa sơ thẩm buộc giao cho bà Hạnh
Ngày 20/11/2020, vợ chồng bà Quý ký HĐ chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Hạnh (SN 1970, ngụ H.Gò Dầu, Tây Ninh) 2.355,8m2 đất (thuộc khu đất 9.424,4m2) với giá 4,5 tỷ đồng. Trên phần đất này, ngoài căn nhà tổ thờ cúng ông bà, do các ACE ông Ẩn bỏ tiền xây năm 2010, còn có 4 ngôi mộ của cụ Sách, ông Ẩn, bà Gái và con gái ông Ẩn mất lúc nhỏ.
Ông Chí, bà Hạnh (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) có đơn yêu cầu độc lập, đề nghị tòa cho "lưu thông HĐ chuyển nhượng đất". Bà Quý cho rằng, cả 2 HĐ đều "giả cách" nhằm đảm bảo cho các khoản vay của bà với 2 người này.
Bản án 82 ngày 14/9/2023 của TAND TX.Trảng Bàng, tuyên:
1/ Công nhận "di chúc" ngày 04/4/2013 có hiệu lực pháp luật. Ông Sang, bà Quý, ông Trọng được QSDĐ 6.741,6m2.
2/ Không chấp nhận yêu cầu của ông Ánh về việc hủy các giao dịch, gồm: "Di chúc" ngày 04/4/2013; văn bản TTPCDSTK ngày 27/8/2012; 2 HĐ "tặng cho" 9.424,4m2 đất giữa cụ Khỏi và ông Ẩn, giữa ông Ẩn và ông Sang; 3 HĐ "tặng cho" 3 phần đất (4.722,9m2, 307m2 và 2.355,8m2) giữa ông Sang và bà Quý.
Không chấp yêu cầu của ông Ánh về chia tài sản chung và di sản thừa kế gồm 16.166m2 và căn nhà tổ.
3/ Tuyên bố 2 HĐ chuyển nhượng đất ngày 21/9/2020 và ngày 20/11/2020 có hiệu lực pháp luật. Ông Chí được quyền sử dụng 2 phần đất 4.722,9m2 và 307m2. Bà Hạnh được quyền sử dụng 2.355,8m2 đất và sở hữu các tài sản trên đất gồm (nhà tổ, 1 am thờ, 1 bàn vọng thiên, 3 chuồng bò, 1 chuồng heo...). Bà Quý phải di dời 3 ngôi mộ ra khỏi khu đất.
Một góc khu đất 9.424,4m2
10 điểm "mờ" của bản án
Nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư (LS) Trần Hải Đức (Đoàn LS TPHCM) cùng nhóm 6 LS bảo vệ quyền lợi và trợ giúp pháp lý cho 6 ACE ông Ánh, nêu quan điểm: Bản án 82 lộ rõ dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng về tố tụng lẫn nội dung, trái với đạo lý. Cụ thể:
Thứ nhất, vụ việc phát sinh tranh chấp xuất phát từ sự gian dối của ông Ẩn, hô biến mình thành "con duy nhất" để được hưởng trọn tài sản thừa kế, trong khi thực tế ông Ẩn có đến 7 ACE ruột. Chính ông Ẩn đã thừa nhận "khai man" là sai trái, đồng thời xác định "đất của cha mẹ để lại" và nhiều lần "đồng ý chia cho tất cả ACE mỗi người 1 phần". Đây là tuyên bố thể hiện ý chí của ông Ẩn khi còn sống, được ghi vào 2 biên bản ngày 01/6/2018 (họp gia đình) và ngày 04/10/2018 (họp hòa giải tại UBND xã An Tịnh). Cả 2 chứng cứ quan trọng này HĐXX đều không xem xét.
Thứ hai, cũng tại biên bản ngày 04/10/2018, ông Sang đã xác định phần đất 9.424,4m2 là "đất hương hỏa do ông bà nội để lại" nên "đồng ý theo ý kiến của cha", chấp thuận "giao trả đất để cha phân chia lại cho các ACE của cha mỗi người 1 phần". Bà Quý "thống nhất theo ý kiến ông Sang". Đây là mấu chốt của vụ án nhưng HĐXX cũng bỏ qua.
Thứ ba, Bản án 82 sử dụng các văn bản ngày 23/7/2012 do Trưởng ấp An Bình và UBND xã An Tịnh xác nhận "quan hệ nhân thân" của ông Ẩn để làm căn cứ giải quyết vụ án là trái pháp luật. Trưởng ấp và UBND xã không có thẩm quyền xác nhận việc này. Quan trọng hơn, việc xác nhận này hoàn toàn sai sự thật, bởi ông Ẩn không phải là "con duy nhất".
Thứ tư, bà Phạm Thị Hạnh yêu cầu được công nhận quyền sử dụng 2.355,8m2 đất, không đề cập đến các ngôi mộ trên đất. Tòa sơ thẩm tuyên buộc bà Quý di dời các ngôi mộ là vượt quá yêu cầu khởi kiện. Mặt khác, trên khu đất có 4 ngôi mộ, Bản án 82 chỉ buộc "bứng" 3, còn 1 mộ thì không xử lý?
Trên khu đất có 4 ngôi mộ nhưng Bản án 82 chỉ buộc "bứng" 3
Thứ năm, Bản án 82 áp dụng các Điều 122, 123, 131 Bộ luật dân sự (BLDS) 2015 về các điều kiện và hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu là không đúng pháp luật. Bởi trong phần Quyết định của Bản án 82 không có bất kỳ giao dịch hay HĐ dân sự nào bị tuyên vô hiệu.
Trong khi đó, Bản án 82 lại không áp dụng đầy đủ các điều luật của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (cụ thể Điều 26, Điều 35 "thẩm quyền của Tòa án"; Điều 143 "lệ phí, án phí”; Điều 273 "thời hạn kháng cáo"...) để xác định thẩm quyền giải quyết vụ án, quyền được kháng cáo của các đương sự theo quy định pháp luật.
Thứ sáu, Bản án 82 chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Thành Chí và bà Phạm Thị Hạnh được "lưu thông HĐ chuyển nhượng đất". Việc chấp nhận này là không có căn cứ pháp lý, bởi BLDS, Luật Đất đai, Bộ luật Tố tụng Dân sự... không hề có thuật ngữ pháp lý, cũng không có bất kỳ quan hệ giao dịch dân sự nào liên quan đến "lưu thông HĐ chuyển nhượng đất".
Thứ bảy, bị đơn Nguyễn Ngọc Ánh có đơn phản tố, nội dung: Yêu cầu tòa kiến nghị Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi các GCNQSDĐ đứng tên ông Ẩn, ông Sang và bà Quý. Phần "nhận định" và "Quyết định" của Bản án 82 đều không xem xét yêu cầu này của đương sự, là trái với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Thứ tám, thành phần HĐXX trong Bản án 82 khác so với Quyết định đưa vụ án ra xét xử (số 82/2023/QĐXXST-DS ngày 23/8/2023). Người tiến hành tố tụng bị thay đổi nhưng không có Quyết định của Chánh án TAND TX.Trảng Bàng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Thứ chín, Bản án 82 bị "cắt xén" tùy tiện, thể hiện sự cẩu thả. Cụ thể: Tại phần Quyết định liên quan đến 4 "HĐ tặng cho QSDĐ", Bản án 82 tuyên "Hợp tặng cho QSDĐ", mất chữ "đồng", hoàn toàn vô nghĩa! Hay trong phần nhận định liên quan "khoản vay của chị Quý”, Bản án 82 viết "khoản của chị Quý”, đã "xén" mất từ "vay" (?!)...
Thứ mười, hồ sơ vụ án thể hiện rõ có nhiều "giấy mượn tiền" giữa vợ chồng bà Quý (bên mượn) với ông Chí và bà Hạnh (bên cho mượn) nhưng Bản án 82 "quên" đề cập.