Mất nhà vì án oan
Ông Nguyễn Thành Công là Giám đốc Công ty Tư doanh Bình Trọng kỹ thương (Bitroco), sở hữu căn nhà rộng 1.200m2 tại số 317 Trần Bình Trọng, Quận 5. (viết tắt 317 TBT). Tháng 3/1990, ông Công vay Hợp tác xã tín dụng Bưu điện (HTX) 500 triệu đồng, vay Sài Gòn Công thương ngân hàng 50 triệu đồng làm vốn kinh doanh. Tính đến cuối năm đó, ông đã trả hết nợ ngân hàng, trả cho HTX hơn 1,5 tỷ đồng và 194 lượng vàng, thừa gần 800 triệu đồng và 194 lượng vàng. HTX tiếp nhận toàn bộ số tiền trên, nhưng lại gửi đơn đến UBND Quận 5 và Công an Quận 5 tố cáo Công ty Bitroco nợ hơn 1,7 tỷ đồng, đề nghị phát mãi căn nhà 317 TBT để thu hồi nợ.

Bản án sơ thẩm về tranh chấp hợp đồng hứa thưởng
Ông Công kêu oan và chứng minh đã trả hết hai khoản vay trên nhưng vẫn bị khởi tố, bắt giam về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN, tài sản công dân". Sau nhiều lần trả hồ sơ điều tra bổ sung, Viện KSND và TAND TPHCM không truy tố và xem xét trách nhiệm bồi thường của ông Công đối với việc vay tiền của HTX và ngân hàng. Dẫu vậy, ông bị phạt 6 năm tù về hành vi chiếm đoạt tiền, vàng của hai tổ chức, cá nhân khác, mặc dù sau bản án không ai yêu cầu ông trả tiền.
Năm 1996, chấp hành xong hình phạt, ông Công tiếp tục hành trình kêu oan. Bộ Công an chỉ ra hàng loạt căn cứ, kết luận việc hợp tác giữa ông Công với HTX cũng như các đơn vị, cá nhân khác là giao dịch dân sự, đề nghị Chánh án TAND Tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy án điều tra lại, nhưng đến nay ông Công vẫn chưa được chính thức minh oan.
Riêng căn nhà 317 TBT, cùng lúc bị xử lý hình sự, ông Công bị ép ký văn tự bán nhà cho bà Trịnh Tú Toàn với giá 875 triệu đồng trừ vào nợ vay của HTX. Bà Toàn được cấp sổ liền sang bán qua tay nhiều người, đến nay đứng tên ông Trương Công Minh và đang thế chấp tại ngân hàng vay 140 tỷ đồng.
"Luật sư" kiện thân chủ
Ngày 24/5/2017, ông Công và vợ ký hợp đồng hứa thưởng với bà Trần Thị Dung (ngụ quận Cầu Giấy, Hà Nội) thỏa thuận công việc: Bên B (bà Dung) thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết để thay mặt bên A đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản trên đất tại địa chỉ 317 TBT và/hoặc những lợi ích hợp pháp như những chi phí hợp lý, những thiệt hại của bên A do bị chuyển nhượng căn nhà 317 TBT. Như vậy, bà Dung phải đồng thời thực hiện hai phần việc là đòi tài sản và đòi bồi thường thiệt hại trong thời gian bị mất quyền sở hữu trái pháp luật.

Căn nhà xảy ra tranh chấp
Về tiền thưởng và thời gian thanh toán, bên A đồng ý thưởng cho bên B số tiền tương đương 55% tổng giá trị tài sản và/hoặc những lợi ích mà bên A nhận được từ việc bên B thực hiện nội dung công việc. Tổng giá trị tài sản được thể hiện trên bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sau khi trừ chi phí thi hành án. Bên B chịu trách nhiệm chi trả toàn bộ các khoản lệ phí nộp cho cơ quan Nhà nước và các chi phí khác trong suốt quá trình thực hiện nội dung công việc. Phương thức thanh toán bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật, bên A thanh toán toàn bộ tiền hứa thưởng cho bên B ngay khi nhận được tiền/tài sản từ việc thực hiện nội dung công việc.
Thực hiện hợp đồng, bà Dung đại diện ông Công khởi kiện vụ án đòi căn nhà 317 TBT tại TAND TPHCM. Qua nhiều cấp xét xử kéo dài, bản án phúc thẩm số 465/2024/DS-PT của TAND cấp cao tại TPHCM công nhận căn nhà 317 TBT là tài sản hợp pháp của ông Công; buộc những người đang sở hữu, quản lý trả lại tài sản cho ông Công. Theo bản án thì bà Dung mới làm được một việc đòi tài sản, việc đòi bồi thường thiệt hại không đồng thời nêu trong đơn khởi kiện nên không được các cấp tòa án xem xét, có nghĩa bà Dung chưa hoàn thành công việc giao kết. Mặt khác, vào thời điểm bà Dung khởi kiện, quá trình thi hành án (THA) đang gặp vướng mắc, hiện nay Cục THA dân sự TPHCM có văn bản gửi tòa án yêu cầu giải thích. Ông Công chưa nhận được bất kỳ tài sản nào thì chưa thể thanh toán tiền hứa thưởng cho bà Dung, mà kể cả khi THA được thì bà Dung còn có trách nhiệm nộp chi phí thi hành án cùng các khoản phí, lệ phí khác nữa.
Tréo ngoe nhất là khi kiện vợ chồng ông Công, bà Dung yêu cầu giao trọn quyền sử dụng căn nhà số 317 TBT, bà Dung hoàn trả 45% giá trị nhà đất theo giá do tòa án thẩm định và còn đề nghị bán luôn 45% vì hiện nay hoàn cảnh vợ chồng ông Công rất khó khăn (ông Công bị tai biến, hai vợ chồng sinh sống nhờ xe bánh mì) không có khả năng trả thưởng cho bà bằng tiền. Ông Công bức xúc trước nguy cơ mất nhà một lần nữa vì Điều 2 hợp đồng ghi rõ là tiền hứa thưởng, "bên A đồng ý thưởng cho bên B số tiền tương đương 55% tổng giá trị tài sản". Hoàn cảnh ông hiện tại khó khăn không có nghĩa sau khi được THA (giai đoạn trả thưởng) vẫn còn khó khăn!
Bản án sơ thẩm nhiều "lỗi" tố tụng
Đơn khiếu nại khẩn cấp của vợ chồng ông Công trình bày: Ngày 24/7/2024, TAND TPHCM ra thông báo thụ lý vụ án Tranh chấp hợp đồng hứa thưởng. Theo yêu cầu của bà Dung, Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 156/2024/QĐ-BPKCTT "Buộc ông Công giữ nguyên tình trạng pháp lý cũng như hiện trạng tài sản tranh chấp. Cấm ông Công không được mua bán, cầm cố, thế chấp... nhà đất số 317 TBT". Quyết định này rất phi lý vì căn nhà vẫn đứng tên ông Trương Công Minh, hiện đang thế chấp tại ngân hàng thì tại sao phải áp dụng BPKCTT đối với ông Công?
Tại phiên tòa sơ thẩm chiều 23/12/2024, Hội đồng xét xử tuyên hủy quyết định số 156/2024/QĐ-BPKCTT nhưng đồng thời lại chấp nhận yêu cầu của bà Dung, thay thế bằng một quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác, số 231/2024/QĐ-BPKCTT có nội dung buộc vợ chồng ông Công giao cho bà Dung được nhận và quản lý tài sản là nhà, đất số 317 TBT trong giai đoạn thi hành bản án số 465/2024/DS-PT cho đến khi vụ án "Tranh chấp hợp đồng hứa thưởng" được quyết định bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.
Ông Công thắc mắc: trong quá trình thẩm vấn, tranh luận, xét xử công khai tại phiên tòa, phía bà Dung không đề cập có đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT mới, thẩm phán cũng không công khai chứng cứ này, vậy quyết định số 231/2024/QĐ-BPKCTT được xem xét, quyết định trước, trong hay sau khi mở phiên tòa sơ thẩm? Có đúng quy định tại Điều 112 Bộ luật Tố tụng dân sự không?
Lạ lùng hơn, ngày 27/12/2024, vợ chồng ông Công mới nhận được quyết định áp dụng BPKCTT số 231/2024/QĐ-BPKCTT do Thừa phát lại chuyển giao, nhưng trước đó vào ngày 24/12/2024 (1 ngày sau phiên tòa sơ thẩm), họ đã nhận được Quyết định thi hành án chủ động của Cục THA dân sự TPHCM. Mới đây nhất vào ngày 28/02/2025, Cục THA dân sự TPHCM ban hành 2 thông báo về việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án, buộc ông Trương Công Minh và ngân hàng giao trả nhà đất cho ông Công, đồng thời buộc vợ chồng ông Công giao nhà đất cho bà Dung quản lý. Thời gian thực hiện cùng lúc 8 giờ 30 phút ngày 18/3/2025, tại địa điểm 317 TBT. Việc này có được hiểu rằng, bản án sơ thẩm của TAND TPHCM đã có hiệu lực pháp luật dù đương sự đang kháng cáo?