(CATP) Báo cáo Quốc hội việc thực hiện một số Nghị quyết chất vấn và giám sát chuyên đề thuộc lĩnh vực Ngân hàng, Chính phủ đã thông tin về tình hình thực hiện nhiệm vụ giám sát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng dư nợ và chất lượng tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao; bảo đảm cung ứng vốn để thị trường chứng khoán, bất động sản (BĐS) phát triển lành mạnh, bền vững theo yêu cầu của Nghị quyết số 134/2020/QH14, Nghị quyết số 62/2022/QH14.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan này thường xuyên giám sát đối với tình hình hoạt động các đơn vị trong hệ thống và xây dựng các báo cáo giám sát an toàn vĩ mô, vi mô theo định kỳ đối với các đối tượng và nhóm đối tượng giám sát.
Thực hiện giám sát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng dư nợ và chất lượng tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao (BĐS, chứng khoán, tiêu dùng, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp...) qua hệ thống báo cáo thống kê và từ các nguồn thông tin khác. Trên cơ sở kết quả giám sát, cơ quan quản lý ban hành các văn bản cảnh báo, khuyến nghị đối với các vấn đề cần quan tâm.
Đáng chú ý, NHNN cũng tiến hành kiểm soát rủi ro cấp tín dụng đối với phân khúc BĐS cao cấp đang dư thừa nguồn cung/BĐS không có nhu cầu thực/kinh doanh có tính chất đầu cơ BĐS, làm giá, lũng đoạn thị trường BĐS. Kiểm soát mức độ tập trung tín dụng vào một số khách hàng/nhóm khách hàng lớn, khách hàng có liên quan đến cổ đông lớn, người có liên quan của cổ đông TCTD, cho vay chéo..., bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng. Đồng thời, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng, việc sử dụng vốn, nhất là việc tập trung quá lớn tín dụng vào một số doanh nghiệp trong hệ sinh thái hoặc doanh nghiệp "nội bộ" có nguy cơ rủi ro lớn.
NHNN tập trung kiểm soát rủi ro cấp tín dụng cho phân khúc BĐS cấp cao (ảnh minh họa)
Đến cuối tháng 7/2023, toàn hệ thống có 40 TCTD đầu tư trái phiếu doanh nghiệp với tổng số dư là 205,4 nghìn tỷ đồng, giảm 14,7% so với cuối năm 2022 và giảm 11,6% so với năm 2020. Tỷ trọng đầu tư trái phiếu doanh nghiệp trên tổng dư nợ tín dụng nhỏ, chiếm 1,67%, thấp hơn mức 2,0% cuối năm 2022. Cùng đến thời điểm, tín dụng để đầu tư, kinh doanh chứng khoán chiếm 0,55%; tín dụng đối với lĩnh vực BĐS tăng 4,99% so với cuối năm 2022, chiếm 21,73% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống.
Nêu khó khăn, theo Thống đốc NHNN, hoạt động ngăn hàng là hoạt động trung gian tài chính và chịu tác động đa chiều của các yếu tố bên trong và bên ngoài, chủ quan và khách quan. Hoạt động tín dụng ngân hàng gắn với rủi ro và nợ xấu là không thể tránh được. Bên cạnh đó, khả năng thu hồi vốn hay hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả kinh doanh của phía khách hàng vay vốn. Mặt khác, do đặc điểm nền kinh tế của Việt Nam là tăng trưởng thiếu bền vững, phụ thuộc quá lớn vào vốn đầu tư, đặc biệt là tín dụng ngân hàng nên khi kinh tế vĩ mô gặp khó khăn tác động đến doanh nghiệp kéo theo tác động lớn đến hệ thống ngân hàng.
Trong khi đó, thị trường chứng khoán, trái phiếu chịu tác động mạnh mẽ, thay đổi đột ngột sau khi xảy ra các sự kiện, thông tin tiêu cực dẫn đến nhiều dự án bị đình trệ, hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng. Một số doanh nghiệp vừa vay vốn tại TCTD, vừa phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) nên khi xảy ra tình trạng mất khả năng trả nợ/mất thanh khoản do việc khó khăn từ huy động vốn từ kênh trái phiếu dẫn đến không có dòng tiền để bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo nguồn thu để trả nợ...
Còn thị trường BĐS, sau thời gian phát triển nóng đã bộc lộ nhiều tồn tại, giá bất động sản sụt giảm ở nhiều phân khúc. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản và khả năng bán/cho thuê tài sản để thanh toán nợ gốc/lãi vay khi đến hạn của khách hàng. Nhiều dự án bất động sản gặp vấn đề về pháp lý, khó giao dịch; huy động vốn của dự án khó khăn, tác động đến dòng tiền và tiến độ triển khai thực hiện dự án.
Sự bất ổn của thị trường vốn, cụ thể là thị trường trái phiếu và thị trường bất động sản thời gian qua gây ảnh hưởng tới tính thanh khoản của thị trường. Tình trạng này góp phần làm mặt bằng huy động vốn lên cao, dẫn tới lãi suất cho vay tăng, ảnh hưởng đến khả năng, nguồn trả nợ của khách hàng, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao cũng như chất lượng tín dụng của toàn hệ thống.
Ngoài ra, chất lượng tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao còn chịu ảnh hưởng bởi những khó khăn từ môi trường kinh tế vĩ mô, bên cạnh các khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách. Trong khi hệ thống pháp luật còn bất cập, việc thiếu các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước tham gia xử lý tài sản bảo đảm và mua bán nợ xấu cũng là vướng mắc hiện nay.