Cần nhanh chóng hoàn thiện cơ chế kiểm soát trái phiếu doanh nghiệp

Thứ Sáu, 28/02/2020 16:31  | Quang Hà

|

(CATP) Theo Bộ Tài Chính, tính đến ngày 28-6-2019, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đạt khoảng 10,22% GDP năm 2018 (trong khi kế hoạch đề ra là 7% GDP), do đó đã vượt kế hoạch đề ra đến năm 2020 theo lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Khối lượng phát hành lũy kế từ đầu năm đến ngày 28-6-2019 là 89.483 tỷ đồng, gấp 1,34 lần so với cùng kỳ năm 2018. Trong năm 2019 và tháng 1- 2020, đã có 210 doanh nghiệp phát hành trái phiếu với hơn 900 lượt phát hành, với tổng giá trị phát hành gần 297.000 tỷ đồng (tăng 32% so với năm 2018). Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 10,93% GDP nên cần nhanh chóng phải hoàn thiện cơ chế kiểm soát loại hình này.

Doanh nghiệp BĐS đua nhau phát hành trái phiếu

Vài năm trở lại đây, thị trường TPDN có sự phát triển nhanh để đáp ứng yêu cầu huy động vốn của doanh nghiệp, thu hút nhiều tổ chức và cá nhân đang đầu tư mạnh vào loại hình này vì TPDN đang trở nên hấp dẫn hơn so với tiền gửi tiết kiệm bởi lãi suất cao hơn đáng kể so với lãi suất huy động có kỳ hạn tại ngân hàng.

Theo Hiệp hội Bất động sản TPHCM (HOREA) thì chỉ trong năm 2019 và đầu năm 2020 doanh nghiệp bất động sản phát hành 106.500 tỷ đồng, chiếm khoảng 38% của tổng giá trị phát hành gần 297.000 tỷ đồng của các doanh nghiệp phát hành TPDN của cả nước. Nếu như trong tháng 1-2020 tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp là 13.374 tỷ đồng, thì các doanh nghiệp bất động sản đã phát hành 7.364 tỷ đồng, chiếm đến 55%.

Theo đó, kỳ hạn bình quân của các TPDN mà các DN bất động sản phát hành là 3,7 năm và mức lãi suất bình quân 10,3%/năm, nhưng cũng có một số doanh nghiệp có lãi suất 12 - 14%/năm. Riêng một công ty có tên “Công ty H.H” có lãi suất trái phiếu 20%/năm là trường hợp cá biệt.

Được biết, tỷ lệ phát hành trái phiếu thành công của doanh nghiệp bất động sản đạt 88,1%, thấp hơn tỷ lệ của nhóm ngân hàng (98,2%), phát triển hạ tầng (99,5%), năng lượng (99,2%). Trong đó, tỷ lệ nhà đầu tư trái phiếu bất động sản là cá nhân chiếm 10,7%.

Tuy nhiên, bên cạnh 84,2% số doanh nghiệp phát hành trái phiếu có tổng giá trị trái phiếu dưới 3 lần vốn chủ sở hữu, đảm bảo được yếu tố an toàn và hợp lý thì vẫn có một số DN phát hành TPDN có giá trị và mức lãi suất lớn.

Một số doanh nghiệp bất động sản có lãi suất trái phiếu lên đến 12 - 14%/năm, cao hơn mức lãi suất trái phiếu bình quân, cá biệt có doanh nghiệp có lãi suất trái phiếu ở mức tối đa là 20%/năm.

Được biết, mức lãi suất 20%/năm là mức tối đa theo quy định tại Điều 468 Bộ Luật Dân sự. Tuy nhiên trên thực tế theo quy định tại Khoản 2.17 Điều 6 Thông tư 78/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính thì mức lãi suất tối đa được xác định để khấu trừ thuế chỉ là 13,5%/năm.

Trường hợp trên mức lãi suất 13,5%/năm, doanh nghiệp không được tính phần lãi vay này vào chi phí, mà phải thanh toán bằng lợi nhuận sau thuế nên thực tế khi DN chào bán TPDN với mức lãi suất lên tới 20%/năm có thể dẫn đến thiệt hại cho quyền lợi của các cổ đông, các thành viên của doanh nghiệp.

Điển hình như một trường hợp Công ty Bất động sản S.B chào bán 150 tỷ đồng trái phiếu 24 tháng với mức lãi suất 18%/năm song trên thực tế đã không có nhà đầu tư mua TPDN này. Điều đó cho thấy các nhà đầu tư trái phiếu cũng đã thể hiện năng lực và trình độ đánh giá, lựa chọn danh mục đầu tư khả thi để tránh rủi ro.

Trái phiếu doanh nghiệp là kênh huy động vốn quan trọng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ảnh minh họa

Thị trường TPDN chưa đảm bảo tính minh bạch

Theo ông Lê Hoàng Châu- chủ tịch HoREA, thị trường trái phiếu doanh nghiệp là một kênh huy động vốn quan trọng, thay thế một phần nguồn vốn tín dụng ngân hàng cho các dự án bất động sản.

Các doanh nghiệp bất động sản được bổ sung nguồn vốn đầu tư với cơ chế mềm hơn, so với việc phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để được vay tín dụng ngân hàng. Thị trường vốn của nước ta chưa phát triển đầy đủ, chưa có các nguồn vốn trung hạn, dài hạn cho thị trường bất động sản.

So sánh với các nước khác, ngoài kênh dẫn vốn là thị trường chứng khoán, còn có các quỹ đầu tư bất động sản, quỹ đầu tư tín thác bất động sản (REITS), kể cả sử dụng nguồn vốn đầu tư từ quỹ hưu trí nên rất cần phát triển loại hình TPDN.

Việc phát triển thị trường TPDN sẽ giúp chính các ngân hàng thương mại cũng đỡ bị áp lực, đỡ phải gánh vác việc cung ứng tín dụng trung, dài hạn cho các doanh nghiệp bất động sản, giảm thiểu được rủi ro.

Mặt khác, xu thế gia tăng các nhà đầu tư cá nhân cũng là tín hiệu đáng mừng theo chủ trương xã hội hóa đầu tư, huy động thêm được nguồn vốn nhàn rỗi rất lớn trong xã hội tham gia đầu tư, thay vì chỉ gửi tiết kiệm.

Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường TPDN thời gian qua cho thấy thị trường TPDN chưa thật đảm bảo tính minh bạch và hiện cũng chưa có đầy đủ cơ chế kiểm soát hiệu quả việc phát hành và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ.

Chưa có nhiều đơn vị tư vấn có năng lực để thực hiện đánh giá chỉ số tín nhiệm của doanh nghiệp phát hành trái phiếu, đánh giá tính khả thi của phương án phát hành trái phiếu. Cho nên, thời gian tới cần tăng cường tính minh bạch của phương án phát hành trái phiếu như thẩm định, đánh giá tín nhiệm của doanh nghiệp phát hành trái phiếu; trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp phát hành trái phiếu; tăng cường cơ chế giám sát, kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về yêu cầu sử dụng vốn trái phiếu đúng mục đích theo phương án phát hành trái phiếu...

Vì vấn đề cần quan tâm là có một số doanh nghiệp chưa đảm bảo yếu tố minh bạch, chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm cung cấp thông tin, không làm rõ mục đích sử dụng vốn trái phiếu và phương án trả nợ gốc, trả lãi, nên có tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư trái phiếu, nhất là nhà đầu tư cá nhân.

Do đó, trong thời gian tới cần thiết phải sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện Nghị định 163/2018/NĐ-CP để tạo hành lang pháp lý phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp minh bạch, lành mạnh, vừa trở thành một trong những nguồn cung ứng vốn đầu tư trung hạn, dài hạn cho doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp bất động sản, vừa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các nhà đầu tư trái phiếu.

Theo ông Châu, hiện nay Nghị định 163/2018/NĐ-CP quy định DN phát hành trái phiếu phải đảm bảo dư nợ trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ tại thời điểm phát hành không vượt quá ba lần vốn chủ sở hữu theo báo cáo tài chính quý gần nhất tại thời điểm phát hành được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Tuy nhiên, kết quả hoạt động phát hành trái phiếu của 177 doanh nghiệp trong 11 tháng đầu năm 2019, đã cho thấy có đến 149 doanh nghiệp, chiếm 84,2%, có giá trị phát hành trái phiếu dưới 3 lần vốn chủ sở hữu; chỉ có 28 doanh nghiệp, chiếm 15,8%, có giá trị phát hành trái phiếu trên 3 lần vốn chủ sở hữu.

TPDN với đặc thù là công cụ nợ do doanh nghiệp phát hành theo nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn và khả năng trả nợ, mà khả năng trả nợ của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào tình hình tài chính và kết quả kinh doanh, nên nhà đầu tư cần phải cân nhắc, đánh giá được rủi ro trước khi quyết định mua trái phiếu.

Nhà đầu tư TPDN có thể gặp phải một số rủi ro như: doanh nghiệp không thanh toán được đầy đủ, đúng hạn gốc, lãi trái phiếu; doanh nghiệp không thực hiện được cam kết với nhà đầu tư về mua lại trái phiếu trước hạn hoặc doanh nghiệp không thực hiện được các điều kiện, điều khoản của trái phiếu do mất khả năng thanh toán...

Để hạn chế tình trạng DN có quy mô vốn nhỏ phát hành trái phiếu với khối lượng lớn tiềm ẩn rủi ro cho cả DN phát hành và nhà đầu tư mua trái phiếu. Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 163 do Bộ Tài Chính ban hành quy định trường hợp DN muốn phát hành trái phiếu vượt quá 3 lần vốn chủ sở hữu thì lựa chọn kênh phát hành ra công chúng với tiêu chuẩn, điều kiện cao hơn và công khai, minh bạch hơn. Đồng thời, bổ sung điều kiện về khoảng cách giữa các đợt phát hành trái phiếu sau phải cách đợt phát hành trước tối thiểu 6 tháng.

Bình luận (0)

Lên đầu trang