Sáng nay (23/10), tiếp tục Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XV, thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên (NCTN), Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết, dự thảo Luật có nhiều quy định chuyên biệt, nhân văn.
Về cơ quan thường trực giúp việc cho Hội đồng quốc gia về tư pháp NCTN, UBTVQH thấy rằng, việc giao cho Bộ Công an là có cơ sở pháp lý và thực tiễn, vừa bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của lực lượng công an trong quản lý công tác điều tra, quản lý thi hành án hình sự và trường giáo dưỡng; đồng thời thống nhất với hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống xâm hại trẻ em và phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi hiện nay đang do Lãnh đạo Bộ Công an làm Trưởng ban, tham gia có đại diện VKSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. “Tiếp thu ý kiến ĐBQH và các cơ quan hữu quan, xin phép Quốc hội giao Bộ Công an là cơ quan thường trực giúp việc cho Hội đồng quốc gia về tư pháp NCTN”- bà Lê Thị Nga đề nghị.
Về biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 52), bà Lê Thị Nga cho biết, trước năm 2015, BLHS quy định 02 biện pháp tư pháp áp dụng với NCTN (gồm: Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và Biện pháp giáo dục tại Trường giáo dưỡng).
“Vì là biện pháp tư pháp, cho nên 02 biện pháp này chỉ được áp dụng sau khi Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và ra bản án. Khi đó NCTN có thể đã bị áp dụng tạm giam ở cả 03 giai đoạn (điều tra, truy tố, xét xử) và thời gian tạm giam có thể lên tới gần 09 tháng đối với tội nghiêm trọng và gần 12 tháng đối với tội rất nghiêm trọng. Khi sửa BLHS vào năm 2015, Quốc hội đã quyết định chuyển biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thành biện pháp giám sát, giáo dục (về bản chất là biện pháp xử lý chuyển hướng như dự thảo Luật); và nay dự thảo Luật Tư pháp NCTN tiếp tục đề xuất chuyển biện pháp tư pháp giáo dục tại Trường giáo dưỡng thành biện pháp xử lý chuyển hướng”-bà Nga lý giải.
Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga
Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp, các lần đề xuất này đều nhằm mục đích “vì lợi ích tốt nhất của NCTN” nhưng vẫn bảo đảm an toàn cho cộng đồng và cho người bị hại bởi vì Trường giáo dưỡng là môi trường giáo dục có kỷ luật chặt chẽ do Bộ Công an trực tiếp quản lý. Khi đó, NCTN sẽ được áp dụng biện pháp đưa vào Trường giáo dưỡng ngay từ giai đoạn điều tra và sớm kết thúc quá trình tố tụng; thời hạn tạm giam NCTN sẽ được rút ngắn đáng kể; hạn chế tối đa gián đoạn quyền học tập, học nghề của NCTN. Đáp ứng yêu cầu tại Điều 40 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em “Bất kỳ khi nào thấy thích hợp và cần thiết, cần đề ra các biện pháp xử lý trẻ em vi phạm pháp luật hình sự mà không phải sử dụng đến thủ tục tư pháp”.
“Tiếp thu ý kiến của nhiều ĐBQH, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định của dự thảo Luật về giáo dục tại Trường giáo dưỡng là biện pháp XLCH; đồng thời đã phối hợp rà soát kỹ lưỡng từng trường hợp được áp dụng biện pháp này để bảo đảm chặt chẽ (tại Điều 52)” - Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp đề nghị.
Về các hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội (Điều 111), UBTVQH cho biết, ngoài hình phạt tù có thời hạn, việc dự thảo Luật tiếp tục kế thừa quy định của BLHS về 03 loại hình phạt khác (gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ) nhằm bảo đảm phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội, đồng thời thể chế hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị “Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ...".
Tiếp thu ý kiến của nhiều ĐBQH, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp đề nghị Quốc hội cho giữ quy định của dự thảo Luật về 04 loại hình phạt, đồng thời UBTVQH đã chỉ đạo rà soát kỹ lưỡng nội dung quy định của từng loại hình phạt nêu trên để vừa bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa tội phạm, vừa đề cao tính nhân văn, hướng thiện trong xử lý NCTN phạm tội (tại mục 1 Chương VII).
Về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 117), tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo rà soát kỹ lưỡng và thấy rằng quy định như hiện hành về tổng hợp hình phạt là bất hợp lý, dẫn đến thiếu công bằng đúng như Báo cáo tổng kết đã nêu.
“Việc sửa đổi như khoản 2 và khoản 3 Điều 117 dự thảo Luật đã khắc phục được sự thiếu công bằng nêu trên. Tuy nhiên, về mức tổng hợp hình phạt chung đề xuất chỉnh lý theo hướng: không quá 12 năm tù đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và không quá 18 năm tù đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và áp dụng thống nhất với mọi tội phạm (mà không chỉ áp dụng với 05 tội như dự thảo Luật). Quy định như vậy vừa bảo đảm phân hóa được chính sách xử lý giữa NCTN phạm 01 tội với NCTN phạm nhiều tội; vừa không tăng nặng trách nhiệm xử lý so với quy định của BLHS; vừa khắc phục được bất cập trong quy định của BLHS về tổng hợp hình phạt; vừa không phát sinh những mâu thuẫn mới trong tổng hợp hình phạt. Trên cơ sở đó, đề nghị Quốc hội cho phép chỉnh lý quy định về tổng hợp hình phạt như khoản 2 và khoản 3 Điều 117 dự thảo Luật”-bà Nga trình bày.
Về tách vụ án hình sự có NCTN phạm tội (Điều 140), theo UBTVQH, nhằm thể chế hóa các yêu cầu của Đảng về “phát triển hệ thống tư pháp thân thiện và bảo vệ trẻ em”, thực thi đầy đủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, dự thảo Luật đã bổ sung nhiều chính sách và quy định chuyên biệt, thân thiện và nhân văn hơn dành cho NCTN như: Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử đối với NCTN không quá 1/2 thời hạn đối với người trưởng thành, trừ trường hợp vụ án có tính chất đặc biệt phức tạp. Người tiến hành tố tụng phải đáp ứng điều kiện đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến NCTN. Quy định trình tự, thủ tục, thời hạn chuyên biệt và cụ thể để xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và biện pháp xử lý chuyển hướng giáo dục tại Trường giáo dưỡng đối với NCTN.
Ngoài ra, dự thảo Luật còn nhiều chính sách chuyên biệt khác chỉ áp dụng với NCTN trong quá trình giải quyết vụ án hình sự… Để thực hiện được đầy đủ các chính sách nhân văn này, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, VKSNDTC, TANDTC đều thống nhất việc tách vụ án trong trường hợp vụ án có bị can là NCTN và người trưởng thành.
Tuy nhiên, về thời điểm tách vụ án trong giai đoạn điều tra, Bộ Công an đề nghị quy định khi xét thấy đã làm rõ hành vi phạm tội của NCTN và các tình tiết có liên quan; TANDTC đề nghị không quy định cụ thể thời điểm tách vụ án trong Luật và nên giao cho liên ngành tư pháp trung ương quy định chi tiết để bao quát các trường hợp trong thực tiễn giải quyết án.
Tiếp thu ý kiến của đa số ĐBQH và các cơ quan hữu quan, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định của dự thảo Luật phải tách vụ án có NCTN phạm tội trong giai đoạn điều tra để giải quyết, nhằm bảo đảm thực thi đầy đủ, hiệu quả các chính sách nhân văn, thân thiện, tiến bộ của dự thảo Luật.
Dự thảo Luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp này gồm gồm 5 phần, 11 chương và 176 điều.