Từ Ba Tơ nhìn ra thời cơ

Thứ Hai, 01/09/2025 09:06

|

(CATP) Cách đây 80 năm, ngày 19/8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã nổ ra thành công ở Hà Nội, Phúc Yên, Thái Bình, Khánh Hòa. Trước đó 5 tháng, tại tỉnh Quảng Ngãi đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa từ núi rừng Ba Tơ, gắn với tên người chiến sĩ Phạm Kiệt. Sau này, Trung tướng Phạm Kiệt là Thứ trưởng Bộ Nội vụ (Bộ Công an), kiêm Tư lệnh, Chính ủy Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng); anh trai của ông là Phạm Ngọc Trân, Trưởng ty Công an đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi.

ANH EM DANH TƯỚNG

Tháng 3/1945, tên xã Khoảng (Phan Mân), một đối tượng trong hệ thống quan lại phong kiến ở làng Ân Phú, xã Tịnh Minh (nay là xã Trường Giang, tỉnh Quảng Ngãi) lo lắng bồn chồn vì tin tức về một cuộc khởi nghĩa ở vùng cao Ba Tơ. Người chỉ đạo cuộc khởi nghĩa đó không ai đâu xa, chính là ông Phạm Kiệt, người cùng làng. Xã Tịnh Minh nằm cạnh dòng sông Trà Khúc, tiếng mõ vang lên khắp làng và người dân đồng thanh theo lời hịch kêu gọi đứng lên:

“Kính cáo đồng bào, hỡi các bậc phụ huynh, hỡi các bậc hiền nhân chí sĩ, hỡi các bạn sĩ, nông, công, thương, binh; Pháp đã mất một nửa nước cho Đức, thế lực của chúng ở ta đã điêu tàn. Song đối với chúng ta, chúng tăng sưu tăng thuế để vơ vét tài sản. Trước tình cảnh ấy, ta có chịu khoanh tay chờ chết không? Không! Quyết không! 20 triệu con cháu Lạc Hồng quyết không chịu vong quốc làm nô lệ mãi...”. Đó là một phần bức tranh nông thôn ở tỉnh Quảng Ngãi sau ngày nổ ra cuộc khởi nghĩa. Ba Tơ vốn là Căng an trí, tức trại giam lỏng của thực dân Pháp dành cho các tù nhân chính trị. Nhưng những người Việt Minh ở nơi này luôn trong tư thế chờ cơ hội, vì Nhật và Pháp cùng đô hộ, nhưng Pháp đã suy yếu thấy rõ. Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp. Chỉ 2 ngày sau đó (11/3/1945), những người Việt Minh đã ra tay, tổ chức cướp khí giới, bức hàng lính Pháp, biến Ba Tơ thành căn cứ kháng chiến. Đến ngày 12/3/1945, Trung ương ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Tờ báo Cứu Quốc kêu gọi đứng lên đánh đuổi cả Pháp và Nhật

Lính Nhật không đủ sức để bao quát toàn bộ mọi vùng miền ở Việt Nam nên phải dựa vào hệ thống chính quyền cũ, đưa nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim lên làm Thủ tướng từ ngày 17/4/1945. Tuy nhiên vào lúc đó, ngọn lửa Ba Tơ đã lan khắp các vùng nông thôn ở Quảng Ngãi và số phận những viên quan trong bộ máy hành chính cũ như xã Khoảng đều run sợ, vì các làng đều thành lập Ban khởi nghĩa giành chính quyền, tiếng mõ gõ lóc chóc suốt ngày đêm. Bà Phạm Thị Trinh, người em út của gia đình ông Phạm Kiệt lúc đó đã rất nổi tiếng vì dẫn đầu 2.000 người đi biểu tình, năm 16 tuổi đã tổ chức treo cờ, rải truyền đơn. Ông Sáu Trân (Phạm Ngọc Trân), sau này là Trưởng ty Công an đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi, từng bị mật thám Pháp đưa vào danh sách đen, cũng lãnh đạo người dân sẵn sàng giành chính quyền. Cụ Phạm Hoàng kể lại, Sáu Trân là người từ lúc còn trẻ đã toát ra phong cách của một thủ lĩnh, ông có tài ăn nói, thuyết phục mọi người, có thể quy tụ một làng theo ông một cách chóng vánh, việc gì khó khăn giao Sáu Trân sẽ luôn có kết quả tốt nhất. Khi tổng khởi nghĩa, dân làng định đưa xã Khoảng ra xử, ông Trân đã đề nghị tha bổng vì chính sách nhân đạo, tránh thù oán.

TIẾN VỀ ĐỒNG BẰNG

Trước đó vào tháng 5/1943, đồng chí Phạm Kiệt từ nhà tù Buôn Ma Thuột được đưa về Ba Tơ và có mang theo bản tóm tắt Nghị quyết Trung ương 8. Lần lượt một số đồng chí bị địch đưa về đây như Trương Quang Giao, Trần Quý Hai (sau này là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng), Trần Lương. Sau đó, một hội nghị được tổ chức đề ra chương trình, kế hoạch hành động, thành lập Tỉnh ủy lâm thời do đồng chí Huỳnh Tấu làm Bí thư, Phạm Kiệt phụ trách quân sự. Đây chính là đội ngũ nòng cốt lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Ba Tơ.

Sau khi cuộc khởi nghĩa thành công, du kích và người dân dựng nhiều chướng ngại vật để ngăn quân Nhật tiến lên vùng giải phóng, đội du kích ẩn mình trong rừng sâu, dưới sự che chở của đồng bào H’re. Điều kiện sống xa đồng bằng, tuyến đường tiếp tế thuận lợi nhất là đi dọc theo dòng sông, tuy nhiên phải đi qua nhiều điểm canh của địch. Vì vậy, đời sống của những người du kích gặp rất nhiều khó khăn, gian khổ.

Tượng đài Khởi nghĩa Ba Tơ, tác phẩm về Trung tướng Phạm Kiệt, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an.

Từ tháng 5/1945, du kích Ba Tơ nhận lệnh rời núi rừng, xuống đồng bằng để bám dân. Đội du kích Ba Tơ chia thành 2 nhánh, nhánh thứ nhất ở 3 huyện phía Bắc (Mộ Đức, Đức Phổ, Nghĩa Hành), nhánh thứ hai đứng chân ở 3 huyện phía Nam (Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa). Dòng quân triển khai thành các chi nhánh nhỏ vào tận các địa phương, vận động quần chúng, tuyển lựa hội viên cứu quốc bổ sung cho Đội du kích Ba Tơ.

Khi những người lính mới được bổ sung vào Đội du kích Ba Tơ, đơn vị chuyển lên lập căn cứ tại khu vực Đá Sơn, Tà Ót, Vĩnh Sơn. Những điểm đóng quân này gần với dân cư, có thể tiếp tế lương thực, nhận được cá khô, nước mắm từ dưới biển gửi lên, việc triển khai đi tập kích các đồn bót của lính Nhật được thuận lợi và an toàn. Sự hiện diện của Du kích Ba Tơ dưới đồng bằng cũng mau chóng làm cho bộ máy của chính quyền trong hệ thống chính phủ do Nhật dựng lên bị vô hiệu hóa vì lo sợ. Cụ Phan Đệ (Phan Em, SN 1923), người được Đội du kích Ba Tơ tuyển mộ tại đồng bằng từng kể lại, do quân Nhật hiện diện ở vùng Quảng Ngãi không đông, tổ chức đóng đồn tại một số vùng ven sông, vì vậy ông đã được ông Phạm Kiệt tổ chức ra sông Châu Ô để tập kích tấn công vào đồn của lính Nhật. Trước khi đi đánh trận, binh lính đều được học câu tiếng Nhật ra lệnh bỏ kiếm, bỏ súng, đầu hàng, mỗi người lính khi gặp nhau đều làm động tác chào bằng nghi thức, đứng nghiêm, nắm tay, hô to “Hy sinh vì Tổ quốc”.

Ông Phạm Kiệt chỉ huy tổ chức tấn công đồn Nhật và ông đã nổi nóng vì người dẫn quân không thực hiện quy định, triển khai đi đánh theo hướng này, khi rút quân thì phải đi theo hướng khác để tránh bị địch phục kích. Cụ Đệ kể, ông Kiệt lúc đó đeo súng ngắn, dáng người rất oai phong, ra lệnh dõng dạc. Đến năm 1945, thanh niên tỉnh Quảng Ngãi đã theo cuộc vận động Duy Tân của các nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp là đàn ông bỏ búi tóc trên đầu, nhưng một số người già thì vẫn giữ phong tục này, vì vậy ông Phạm Kiệt trong sinh hoạt cũng nhắc nhở phải cắt tóc ngắn, xóa bỏ tàn dư chế độ phong kiến.

BÀI HỌC THỜI CƠ CÁCH MẠNG

Thời cơ của cách mạng Việt Nam luôn gắn với những chuyển biến chính trị toàn cầu. Từ ngày 17/4/1940, Chính phủ Pháp đã sụp đổ và tan rã dưới xích xe tăng của quân Đức, nước Pháp hùng mạnh đã thua trận và Thống chế Pétain trở thành chính phủ bù nhìn được phát xít Đức dựng lên. Trong lúc đó, từ nước Anh, một trung tá quân đội Pháp không có tên tuổi là Charles de Gaulle (sau này trở thành Tổng thống Pháp) đã có buổi phát thanh kêu gọi người Pháp tiếp tục cuộc chiến với phát xít Đức. Chính phủ bảo hộ ở Việt Nam liên tục phát đi lời kêu gọi thanh niên tòng quân sang giúp nước Pháp, tổ chức quyên góp tiền mang về nước Pháp. Vai trò của Pháp tại Việt Nam đã suy yếu rõ rệt vì ngày 22/9/1940, quân Nhật đã bắt đầu tiến vào Việt Nam qua ngả đường sắt ở Lạng Sơn. Quân Nhật chính trị hóa mục đích của mình là sang giúp người Việt Nam, nhưng sau đó đã gây ra nạn đói khủng khiếp.

Đêm ngày 09/3/1945, quân Nhật đảo chính và lính Pháp rối loạn rất nhanh. Nhật trở thành lực lượng cai trị thay Pháp. Nhưng chỉ 5 tháng sau (ngày 06 và 09/8/1945), Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng và hệ thống quân sự của Nhật ở Việt Nam nhanh chóng sụp đổ, lính Nhật bị kẹt lại đã chạy sang ủng hộ, huấn luyện cho Việt Minh. Mười ngày sau, Tổng khởi nghĩa nổ ra khắp cả nước vào ngày 19/8/1945.

Trước đó 5 tháng, khi Nhật đang là một thế lực khét tiếng trên biển, nhất là qua trận Trân Châu Cảng ở Hawaii, nhấn chìm 21 tàu chiến Mỹ. Tuy nhiên, lực lượng vũ trang ở Quảng Ngãi vẫn tổ chức khởi nghĩa. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, quân Pháp mon men trở lại chiếm đóng nhiều nơi, nhưng tỉnh Quảng Ngãi vẫn là vùng tự do của Liên khu 5 từ năm 1945 - 1954.

Bình luận (0)

Lên đầu trang