Vụ nhập hơn 1.280 container máy móc cũ: Truy tố 26 bị can về tội buôn lậu

Thứ Năm, 24/11/2022 13:22

|

(CATP) Ngày 22-11, Viện KSND TPHCM đã hoàn tất cáo trạng truy tố 26 bị can trong vụ buôn hơn 1.280 container, trị giá hơn 211 tỷ đồng từng gây xôn xao dư luận. Trong đó, đối tượng chủ mưu vốn am hiểu các quy định của pháp luật về xuất, nhập khẩu hàng hóa, nhưng vì muốn thu lợi bất chính đã có hành vi móc nối với nhóm chủ hàng chuyên kinh doanh mua bán máy móc, thiết bị cũ.

Cấu kết để thu lợi bất chính

Nhóm bị can bị truy tố về tội "buôn lậu" gồm: Hoàng Duy Tiến (SN 1985), Huỳnh Thị Quỳnh Trang (SN 1984), Phan Minh Tuấn (SN 1987), Nguyễn Thanh Bình (SN 1994), Nguyễn Bảo Châu (SN 1994), Lâm Hồng Đào (SN 2000), Trần Hoàng Lợi (SN 1997), Nguyễn Trung Thuận (SN 1996), Đinh Văn Hiên (SN 1985), Trần Xuân Duận (SN 1975), Dương Mạnh Linh (SN 1989), Võ Hoài Đức (SN 1995), Dương Quốc Hòa (SN 1995), Trần Đình Hùng (SN 1996), Trần Tấn Long (SN 1987), Cao Đăng Minh (SN 1992), Trịnh Hoàng Phước (SN 1998), Mai Đức Tài (SN 1994), Đinh Quang Triều (SN 1992), Nguyễn Mạnh Toàn (SN 1975), Nguyễn Thị Mai Phương (SN 1973), Nguyễn Đình Thiều (SN 1968), Phạm Toàn (SN 1982), Võ Văn Đông (SN 1967), Lê Văn Thành (SN 1984), Vũ Văn Tuấn (SN 1984).

Theo nội dung vụ án, qua công tác nắm tình hình địa bàn, ngày 24-5-2021, Công an TPHCM phối hợp cùng Chi cục Hải quan Cảng Sài Gòn khu vực I, TPHCM tổ chức kiểm tra, dừng thủ tục thông quan đối với 6 container hàng hóa là máy móc, thiết bị đã qua sử dụng theo 6 tờ khai hải quan (của Công ty TNHH Gia Cát Thành, Công ty TNHH Kỹ thuật xây dựng Đại Lợi, Công ty TNHH Công nghệ sản xuất Hoàng Kim).

Lực lượng chức năng phát hiện, kiểm tra số thiết bị máy móc đã qua sử dụng nhập lậu về Việt Nam

Qua làm việc, Phan Minh Tuấn và Nguyễn Thanh Bình xác định toàn bộ các công ty đứng tên nhập khẩu 6 container hàng được thành lập để sử dụng vào mục đích mở tờ khai hải quan, làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa là máy móc, thiết bị đã qua sử dụng từ Nhật Bản, Đài Loan về Việt Nam theo Quyết định số 18/2019/QĐ/TTg ngày 19-4-2019 của Thủ tướng Chính Phủ (QĐ18), nhưng thực tế không sử dụng hàng hóa vào mục đích sản xuất mà giao lại cho các đối tượng khác để bán kiếm lời.

Với chức năng, nhiệm vụ công tác được phân công, Hoàng Duy Tiến cho phép nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất đã qua sử dụng về phục vụ cho sản xuất của chính doanh nghiệp được quy định tại QĐ18. Lợi dụng chính sách này, Tiến thỏa thuận với các chủ hàng, thông qua danh nghĩa pháp nhân của các công ty do bị can thành lập để nhập khẩu máy móc, thiết bị đã qua sử dụng về Việt Nam giao lại cho các chủ hàng nhằm mua bán kiếm lời.

Chi phí các chủ hàng trả cho Tiến là 78 triệu đồng đến 90 triệu đồng/container hàng tùy vào thời điểm. Trong đó, Tiến sẽ lo toàn bộ chi phí đóng thuế, trả tiền vận chuyển hàng về kho, chi phí trả cho công ty giám định, chi phí cho cán bộ kiểm hóa của hải quan... Để phục vụ cho hoạt động buôn lậu của mình, Tiến thuê một số đối tượng giúp làm thủ tục thành lập công ty, hồ sơ nhập khẩu, làm thủ tục hải quan, giao dịch thanh toán chi phí cho các hoạt động liên quan...

Theo QĐ18, hàng hóa nhập có thiết bị, máy móc cũ được sản xuất không quá 10 năm. Do vậy, Tiến chỉ đạo nhân viên khi làm hồ sơ hải quan nhập các container hàng về Việt Nam phải chỉnh sửa dưới 10 năm để đủ điều kiện. Đồng thời, để giảm chi phí đóng thuế, Tiến cho khai trị giá hàng nhập thấp hơn rất nhiều giá trị thật. Điều đáng nói, dù quy định doanh nghiệp được mang máy móc, thiết bị đã qua sử dụng về kho bảo quản chờ kết quả giám định đủ điều kiện mới cấp thủ tục thông quan, nhưng Tiến lại kêu nhân viên sau khi nhận hàng ở cảng liền giao cho chủ hàng mà không chờ giám định.

Để cấp thủ tục thông quan cho các container hàng được nhập về Việt Nam theo quy định, Tiến thỏa thuận với Công ty Cổ phần Giám định Đại Minh Việt (Công ty Đại Minh Việt) cấp chứng thư giám định khống (thực tế hàng hóa không rõ năm sản xuất, nhãn mác hoặc không còn hàng để giám định nhưng vẫn cấp chứng thư giám định đủ điều kiện, tiêu chuẩn nhập theo QĐ18) cho các container hàng với giá từ 2,8 đến 3,2 triệu đồng một chứng từ tùy thời điểm.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định, ngày 24-5-2021, Tiến đã sử dụng 3 công ty gồm: Công ty TNHH Gia Cát Thành, Công ty TNHH Kỹ thuật xây dựng Đại Lợi, Công ty TNHH Công nghệ sản xuất Hoàng Kim làm thủ tục mở tờ khai hải quan để nhập khẩu thông quan tổng cộng 7 container hàng để giao lại cho các chủ hàng, gồm: Nguyễn Mạnh Toàn, Nguyễn Thị Mai Phương, Phạm Toàn, Nguyễn Đình Thiều, Lê Văn Thành, Vũ Văn Tuấn để tiêu thụ.

Máy móc, thiết bị cũ nhập về TPHCM

Ngày 25-5-2021, Công an khám xét các công ty trên, thu giữ hàng ngàn bộ tờ khai hải quan kèm các chứng thư giám định, phiếu cược... Tổng cộng hàng hóa trong 7 container có giá trị gần 6,2 tỷ đồng. Kết quả điều tra xác định, từ tháng 9-2019 đến trước ngày 24-5-2021, Hoàng Duy Tiến đã thành lập 47 công ty, sử dụng tư cách pháp nhân của 45/47 công ty (mỗi công ty sử dụng pháp nhân nhập khoảng vài chục container hàng, sau đó bỏ công ty cũ, thành lập công ty mới để tránh bị phát hiện) mở 1.146 tờ khai hải quan, nhập lậu hơn 1.280 container và 7 tờ khai hải quan 7 container hàng vào ngày 24-5-2021.

Để phục vụ cho hoạt động buôn luận, tháng 8-2019, Tiến thuê Lê Trần Viết Luân điều hành các hoạt động thành lập các công ty, làm hồ sơ nhập khẩu, thanh toán thuế, thanh toán chi phí vận chuyển hàng từ nước ngoài về Việt Nam, cắt/niêm seal hải quan... các container hàng máy móc thiết bị cũ được nhập khẩu về Việt Nam để giao cho các chủ hàng. Luân thuê Huỳnh Thị Quỳnh Trang, Phan Minh Tuấn, Nguyễn Bảo Châu để phụ giúp. Tuy nhiên, giữa Tiến và Luân xảy ra mâu thuẫn từ đầu năm 2020 nên Luân nghỉ việc. Đến tháng 3 và 4-2020, Tiến thuê thêm Nguyễn Thanh Bình, Trần Hoàng Lợi, Nguyễn Thị Anh Thư, Nguyễn Trung Thuận.

Tiến mượn và sử dụng CMND của Lâm Hồng Đào (bạn của Tiến), Lâm Hồng Điệp (mẹ của Đào), Trần Ngọc Châu (em của Đào), Nguyễn Thị Thanh Thảo (người quen của Đào), đưa cho Huỳnh Thị Quỳnh Trang làm thủ tục thành lập nhiều công ty khác nhau đứng tên pháp nhân nhập khẩu hàng hóa theo QĐ18 để phục vụ hoạt động buôn lậu. Các công ty này đều không có nhà xưởng, không hoạt động sản xuất, không sử dụng bất kỳ máy móc, thiết bị cũ nào đã nhập khẩu.

Bất chấp quy định của pháp luật

Sau khi các nhân viên của Tiến làm xong thủ tục nhập khẩu hàng hóa và các container hàng được đưa ra khỏi Cảng Cát Lái, Tiến liên hệ với công ty vận chuyển cung cấp số điện thoại của các chủ hàng hoặc người làm thuê cho các chủ hàng theo từng container tương ứng điều phối các nhà xe vận chuyển về kho, bãi để giao. Mỗi lần nhập và giao hàng về kho thành công, các chủ hàng thanh toán tiền cho Tiến theo thỏa thuận tùy thời điểm.

Để thực hiện hành vi, Tiến và các nhân viên trực tiếp sử dụng pháp nhân các công ty để làm thủ tục nhập khẩu máy móc, thiết bị đã qua sử dụng. Toàn bộ các hợp đồng ngoại thương, hóa đơn, chứng từ liên quan đến các lô hàng hóa đều được Tiến và đồng phạm làm giả, lập khống trở thành đủ điều kiện theo quy định của QĐ18. Sau đó, để hàng hóa đủ thủ tục thông quan, Tiến móc nối với Công ty Cổ phần Giám định Đại Minh Việt lập các biên bản hiện trường giám định hàng hóa, cấp chứng thư có nội dung khống để cung cấp cho cơ quan hải quan.

Đối với các Công ty Cổ phần Giám định Đại Minh Việt, dù không thỏa thuận với Tiến về việc nhập khẩu hàng hóa máy móc, thiết bị cũ về Việt Nam để tiêu thụ nhưng các giám đốc, phó giám đốc, trưởng phòng giám định, giám định viên hoàn toàn biết rõ các quy định của QĐ18. Tuy nhiên, các bị can bất chấp quy định của pháp luật để lập khống các biên bản cũng như cấp khống các chứng thư giám định, bỏ mặc hậu quả xảy ra để Tiến và nhân viên của mình hợp thức hóa hồ sơ thông quan hàng hóa trót lọt.

Về phía chủ hàng, vì có nhu cầu mua bán các mặt hàng máy móc, thiết bị cũ để kiếm lời đã móc nối, thỏa thuận để Tiến nhập lậu hàng hóa về Việt Nam. Sau đó, giao lại cho các bị can để kinh doanh mua bán, không có máy móc, thiết bị nào được nhập về để phục vụ sản xuất kinh doanh. Vì vậy, hành vi của các bị can được xác định là đồng phạm, đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động quản lý kinh tế Nhà nước về xuất, nhập khẩu...

Cũng theo kết luận điều tra, vào tháng 02-2021, Võ Văn Đông gặp Tiến nói có người bạn cần nhập khẩu các container hàng máy móc cũ từ nước ngoài vào Việt Nam. Tiến đồng ý với chi phí 90 triệu đồng/container (đã bao gồm chi phí vận chuyển). Tiến trực tiếp nhận thông tin bill tàu, list hàng của container hàng máy móc, thiết bị cũ từ Đông mà không thông qua nhân viên của mình. Sau đó, Tiến chỉ đạo các nhân viên làm hồ sơ, thủ tục nhập khẩu các container hàng tại Chi cục Hải quan cửa khẩu Cảng Sài Gòn khu vực I tương tự như các chủ hàng khác.

Trao đổi, liên lạc trong suốt quá trình nhập các container giữa Tiến và Đông chủ yếu qua ứng dụng Viber. Ngoài ra, Đông còn cung cấp số điện thoại của Hải (chưa rõ lai lịch, là nhân viên của Đông) để Tiến cung cấp cho bên nhà xe, giám định và liên hệ với Khải giao nhận các container, giám định máy móc, thiết bị cũ các container hàng của Đông. Sau mỗi lần nhập hàng thành công, Đông gặp Tiến để đưa tiền chi phí như thỏa thuận. Từ tháng 02-2021 đến 24-5-2021, Tiến đã làm thủ tục, hồ sơ nhập khẩu vận chuyển trót lọt về kho cho Đông tổng cộng 6 container máy móc, thiết bị cũ. Kết quả giám định các lô hàng trên trị giá hơn 924 triệu đồng.

Tại cơ quan điều tra, Đông không thừa nhận có liên quan hay thỏa thuận gì với Tiến về việc nhập khẩu hàng hóa máy móc cũ từ nước ngoài về Việt Nam. Thế nhưng căn cứ vào tài liệu, chứng cứ, dữ liệu điện tử thu thập và kết quả điều tra vụ án, cơ quan điều tra đủ căn cứ nhận định Đông thông qua Tiến nhập khẩu trót lọt 6 container hàng hóa từ nước ngoài về Việt Nam, trước khi Tiến bị bắt.

Bình luận (0)

Lên đầu trang