(CATP) Lâu nay, nhiều người biết xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre là cái nôi cách mạng của quê hương Đồng Khởi, song ít ai biết nơi đây còn có Di tích lịch sử cấp quốc gia nằm cách đền thờ Nữ tướng Nguyễn Thị Định chừng 500 mét, đó là Đình Rắn. Đình được lập cách đây hơn 150 năm, gắn với nhiều câu chuyện bí ẩn mà các lão niên chưa ai lý giải rõ ngọn ngành.
Xuyên qua hàng tràm cổ thụ, hiện ra trước mắt chúng tôi là ngôi đình bề thế, trầm mặc giữa chốn hoang vu. Thấy khách tới thăm, bà Võ Thị Năm niềm nở đón tiếp và cho biết mình được Ban Khánh tiết cử trông coi Đình Rắn mấy chục năm nay. Theo lời kể của người tiền nhiệm, ngôi đình được lập hơn 150 năm, vừa trùng tu nên mới khang trang như vậy. Ngày trước, ở đây có cặp rắn thần to bằng khạp 5 cân, dài trên 20 mét, mỗi khi “ông” về, đi rạp cả lúa. Tuy nhiên, “ông” chưa bao giờ hại ai, chỉ ăn thịt những ác thú như hùm, beo… Sau ngày đất nước thống nhất, “ông” trở về với rừng sâu, núi thẳm.
Đó chỉ là một trong vô số những câu chuyện ly kỳ về Đình Rắn mà hầu như người dân nào ở đây cũng đã nghe qua. Chưa rõ thực hư thế nào, chỉ biết rằng trong chiến tranh, Đình Rắn là một trong những cơ sở hoạt động cách mạng. Nữ tướng Nguyễn Thị Định thường xuyên lui tới trụ sở bí mật này để họp bàn, chỉ đạo phong trào kháng chiến Đồng Khởi.
Chuyện rắn thần về làng Định Thủy ban đầu được đồn thổi râm ran trong dân chúng, sau lan nhanh trong giới lính ngụy. Lúc đầu, người ta cho cặp rắn dài hàng chục mét nằm vắt ngang đường hay nuốt trọn con bê mà một số người khẳng định từng chứng kiến là chuyện lừa mị. Song một điều có thật là mỗi khi bọn lính bén mảng đến khu vực đình đều bị tơi tả do giẫm phải mìn, sụp hầm chông…
Lối vào Đình Rắn
Cách đây nhiều năm, chúng tôi có dịp trò chuyện với cụ Nguyễn Văn Trọng (khi đó 92 tuổi, còn gọi là cụ Mười), Phó Ban Khánh tiết của đình, và được nghe kể: Vào những năm đầu thế kỷ XVIII, bốn họ tộc Nguyễn, Phan, Trịnh và Võ ở Đàng Ngoài có công khai phá vùng đất trù phú này. Trong lúc vượt sông Hàm Luông, họ gặp phải sóng to gió lớn, thuyền bè chao đảo, may mắn được một con rắn lớn nâng thuyền qua sông an toàn. Cảm ơn rắn thần cứu mạng nên sau này khi lập đình xong, người dân liền thỉnh “ông” về thờ. Theo tín ngưỡng dân gian, các lưu dân này chọn mô đất cao, thoáng, dựng ngôi miếu nhỏ để thờ chúa sơn lâm. Để dễ bề cai quản dân làng, các chức sắc lúc bấy giờ xin quan trên cho thành lập làng, lấy tên là Định Phước.
Đến giữa năm 1790, làng Định Phước được thành lập. Lúc bấy giờ trong dân gian xuất hiện quan niệm làng nào không có đình là làng kém cỏi, thua thiệt làng bên, nên ít lâu sau các cụ xin lập đình ngay trên nền miếu ông Hổ để bà con có nơi sinh hoạt, hội hè. Thế là một ngôi đình lớn ba gian làm bằng gỗ, mái lợp lá dừa nước, quay mặt về hướng Đông ra đời. Khi đình dựng xong, chức sắc của đình mới gửi sớ về triều đình xin phong sắc thần. Đến năm Minh Mạng thứ 5 thì Đình Định Phước nhận được sắc phong “Trung Trực Vi Thần”.
Nhận được sắc phong, các cụ tiến hành bầu Ban Khánh tiết của đình, đứng đầu là chức hương cả. Cả ba ông hương cả đầu tiên của đình, trong đó có ông nội của cụ Mười là ông Nguyễn Văn Khả, sau khi được bầu lên đều qua đời một cách đột ngột. Thấy vậy, từ đó không ai dám nhận chức hương cả này. Các cụ họp lại “tương kế tựu kế” rồi cho dựng lại ngôi miếu nhỏ nằm bên trái đình để thờ ông Hổ, đồng thời thống nhất bầu luôn chức hương cả cho ông Hổ. Từ đó, truyền thuyết về ông “Cả Hổ” cũng bắt đầu lưu truyền. Khi bầu xong, các cụ đặt một chiếc ghế bành trước cửa đình, trên đó để cái đầu heo sống và tờ cử (giống như quyết định bổ nhiệm) cúng cho ông Hổ. Rạng sáng hôm sau, các chức việc của đình phát hiện đầu heo và tờ cử biến mất một cách bí ẩn.
Khi mãn nhiệm kỳ bốn năm, Ban Khánh tiết được bầu lại cũng làm giống lần trước. Hôm sau, người ta phát hiện đầu heo và tờ cử mới biến mất, thay vào đó tờ cử cũ đột nhiên xuất hiện trên ghế. Mãi đến nhiều nhiệm kỳ tiếp theo cũng còn giữ tục lệ này. Thế rồi trong một lần bầu nhiệm kỳ mới, chiếc đầu heo cùng tờ cử cúng vào hôm trước sáng hôm sau vẫn còn nguyên, nhưng trên ghế không còn tờ cử cũ nữa. Mọi người từ đó suy đoán chắc ông Cả đã… đi xa! Từ đó đến nay, việc bầu bán không còn cúng đầu heo và tờ cử nữa. Thay vào đó các cụ xin keo và chỉ bầu chức “phó hương cả”, ngày nay gọi là Phó ban Khánh tiết của đình.