Reuters đưa tin chính quan điểm đó của khách hàng đã khiến các hãng xe Mỹ như Chevrolet và Cadillac khó bán sản phẩm và khiến sản phẩm của họ hiếm khi xuất hiện tại các thành phố đầy những chiếc xe có kích thước nhỏ hơn, ít ngốn xăng hơn như Toyota Corolla, Honda Civic, Volkswagen Golf và Renault Clio.
Trước sức ép từ Nhà Trắng, trong các thỏa thuận thương mại gần đây, cả hai thị trường là Nhật Bản và Châu Âu đều đồng ý bỏ hoặc nới lỏng các bài kiểm tra an toàn đối với xe nhập khẩu từ Mỹ. Châu Âu tuyên bố sẽ giảm thuế đối với xe Mỹ.
Nhưng việc hạ bớt các rào cản thương mại này cũng khó thuyết phục người tiêu dùng Nhật Bản và Châu Âu, những người đang phải vật lộn với đường giao thông chật hẹp và chỗ đậu xe chật chội khi mua những chiếc xe Ford F-150 cỡ lớn do Mỹ sản xuất và những chiếc SUV Cadillac Escalade.
"Xe hơi Mỹ được thiết kế để chạy trên đường rộng và đường cao tốc, vì vậy việc điều khiển chúng trên những con phố hẹp ở Nhật Bản có thể khá khó khăn. Cần một chút kỹ thuật" - Yumihito Yasue, chủ tịch Johnan Jeep Petit, một công ty nhập khẩu và bảo dưỡng xe cổ từ Mỹ tại Tokyo cho biết. Khách hàng của ông thường là những người đam mê xe hơi ở độ tuổi 50 và 60, những người lớn lên cùng với việc xem xe hơi Mỹ trên TV và phim ảnh.
Vào một ngày trong tuần gần đây, ông đang bảo dưỡng hai chiếc Chevrolet, một chiếc Nova màu nâu bóng đời 1971 và một chiếc El Camino gầm thấp đời 1986, cả hai đều có vô lăng bên trái. Ở Nhật Bản, vô lăng nằm bên phải.

Các mẫu xe từ Mỹ có kích thước lớn, ngốn xăng ít được ưa chuộng ở các thị trường như Nhật và Châu Âu - Ảnh: Reuters
Yasu thừa hưởng tình yêu xe hơi Mỹ từ cha mình, người đã khởi nghiệp kinh doanh cách đây bốn thập kỷ và thường đến California để tìm kiếm xe. Yasue tiếp quản công ty sau khi cha ông qua đời cách đây 9 năm và bán được khoảng 20 xe mỗi năm.
"Điều làm nên sự đặc biệt của xe hơi Mỹ chính là thiết kế. So với xe hơi Nhật Bản hay Đức, hình dáng thân xe đẹp hơn. Đặc biệt là các đường nét, như đường viền đuôi xe và bộ phận chắn bùn" - ông nói.
Khoảng 3,7 triệu xe ô tô mới đã được bán ra tại Nhật Bản vào năm ngoái, với một phần ba trong số đó là xe mini hoặc "kei" - những chiếc xe nhỏ, tiết kiệm nhiên liệu không phải do các hãng ô tô Mỹ sản xuất. Nhìn chung, xe hơi nước ngoài chiếm 6% doanh số bán xe mới, theo dữ liệu từ Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản.
Trong số đó, chỉ có khoảng 570 chiếc Chevy, 450 chiếc Cadillac và 120 chiếc Dodge đã được bán ra, theo dữ liệu từ Hiệp hội các nhà nhập khẩu ô tô Nhật Bản.
Tại Châu Âu, những chiếc xe nhỏ hơn được sản xuất tại Mỹ đã bán chạy: những mẫu xe như Ford Puma bán chạy nhất và Fiesta đời cũ. Nhưng trong hai thập kỷ qua, Ford và General Motors đã chuyển hướng sang các dòng xe bán tải và SUV có kích thước lớn hơn. Đây là những mẫu xe ít phù hợp với đường phố hẹp và văn hóa xe nhỏ gọn của châu Âu.
Ford là một thương hiệu lớn tại Châu Âu từ đầu những năm 1900, đã chứng kiến doanh số bán hàng tại khu vực này giảm mạnh, từ 1,26 triệu xe vào năm 2005 xuống chỉ còn 426.000 xe vào năm 2024, theo dữ liệu từ Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô châu Âu (ACEA). Thị phần của hãng đã giảm từ 8,3% xuống còn 3,3%.
"Chúng tôi không mua Ford F-150, đó không phải là những gì đường xá của chúng tôi được thiết kế, đó không phải là những gì khách hàng của chúng tôi mong muốn" - Andy Palmer - cựu Giám đốc điều hành (CEO) của Aston Martin nói với Reuters.

Mong muốn của ông Trump muốn các thị trường nước ngoài tăng cường nhập khẩu ô tô của Mỹ có thể bị cản bước vì
nhu cầu từ chính thị trường
Trong khi đó, General Motors (GM) đã rời khỏi châu Âu vào năm 2017, bán Opel sau khi rút khỏi Chevrolet, nhưng đã quay trở lại với mẫu xe Cadillac Lyriq vào năm ngoái. Theo công ty dữ liệu ô tô Jato, hãng chỉ bán được 1.514 chiếc SUV sản xuất tại Mỹ.
Một phát ngôn viên của GM cho biết Cadillac đang mở rộng dòng sản phẩm chạy hoàn toàn bằng điện tại châu Âu, và những chiếc xe này đã được đón nhận nồng nhiệt tại các thị trường nơi chúng được ra mắt. Một phát ngôn viên của Ford cho biết công ty đã xuất khẩu các sản phẩm sang châu Âu như Bronco và Mustang, cùng với các mẫu xe sản xuất tại địa phương được thiết kế riêng cho thị trường này.
Clive Sutton, một đại lý ô tô Anh tại London chuyên bán các mẫu xe sang trọng của Mỹ cho biết khách hàng của ông bị thu hút bởi sự hiếm có của những chiếc xe như chiếc Cadillac Escalade có kích thước khổng lồ. Nhưng ông thừa nhận đó là một thách thức.
"Có những người muốn sở hữu chiếc xe đó vì tính độc quyền và địa vị của nó. Nhưng đây không phải là chiếc xe dễ tìm chỗ đậu nhất, nhất là ở trung tâm London" - Sutton cho biết.
Ông Trump cũng đã gây áp lực buộc Hàn Quốc phải mở cửa thị trường cho ô tô Mỹ và cho biết việc miễn thuế là một phần của thỏa thuận thương mại mà hai nước đã nhất trí vào tuần trước.
Theo dữ liệu từ Hiệp hội các nhà nhập khẩu và phân phối ô tô Hàn Quốc, tại đây, xe nhập khẩu chiếm chưa đến 1/5 thị trường ô tô và các mẫu xe Mỹ chỉ chiếm 16% phân khúc xe nhập khẩu, vốn do các đối thủ Đức thống trị.
Các nhà sản xuất Đức cũng đã tạo dựng được sự hiện diện vững chắc trên thị trường xe sang của Nhật Bản. Mercedes-Benz đã bán được hơn 53.000 xe vào năm ngoái, trở thành thương hiệu nước ngoài phổ biến nhất, tiếp theo là BMW với hơn 35.000 xe. Các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản cho biết các nhà sản xuất châu Âu đã thành công vì họ đã cam kết thời gian và nguồn lực cho thị trường này.
Trong khi đó, các nhà sản xuất ô tô Mỹ thường gắn liền với những chiếc xe vô lăng bên trái, vốn khó lái hơn ở những thị trường này.
Nhưng một số nhà sản xuất Mỹ đang thay đổi.
GM chỉ cung cấp Corvette với phiên bản tay lái bên phải kể từ khi phiên bản thế hệ thứ tám được bán ra vào năm 2021. Đó có thể là một lý do tại sao khoảng 80% người mua là khách hàng mới, một phát ngôn viên của GM cho biết. Corvette là mẫu xe duy nhất mà GM cung cấp tại Nhật Bản, và hãng đã bán được chưa đến 1.000 chiếc mỗi năm trong thập kỷ qua.
Năm nay, GM đã công bố kế hoạch cho dòng xe điện Cadillac tay lái bên phải và việc giao hàng dòng xe Lyriq cũng đã bắt đầu vào tháng 7.