Chân tướng vụ việc đã dần lộ rõ nhưng ông Thanh không nhìn nhận, tìm mọi cách “bao biện”. Tệ hại hơn, cựu GĐ còn “phán” Quyết định của UBND H.Bình Chánh “không còn hiệu lực thi hành”, để ký duyệt sang tên thửa đất cho người khác, lộ rõ dấu hiệu trái pháp luật…
HƠN CẢ… “QUAN TÒA”(?!)
Ngày 28/4/2023, phóng viên (PV) Chuyên đề CATP đã đến Chi nhánh VPĐKĐĐ H.Bình Chánh (gọi tắt “Chi nhánh”) để thu thập thông tin liên quan đến việc gia hạn quyền sử dụng đất (QSDĐ) và ký duyệt sang tên thửa đất số 609 tờ bản đồ 26, thị trấn Tân Túc, H.Bình Chánh theo đơn “đăng ký biến động (ĐKBĐ) đất đai, tài sản gắn liền với đất” của ông Nguyễn Văn Tới (ngụ H.Bình Chánh). Cụ thể, PV đề nghị Giám đốc (GĐ) Chi nhánh thông tin 3 vấn đề:
Cơ sở pháp lý để Chi nhánh duyệt đơn ĐKBĐ của ông Tới, cho gia hạn thời gian sử dụng đất đến năm 2065, trong khi ông Tới không phải chủ sử dụng thửa đất 609?
Thửa đất 609 đã được UBND H.Bình Chánh chuyển từ “giao” sang “thuê đất” bằng Quyết định (QĐ) số 1936/QĐ-UBND ngày 24/4/2013. QĐ này đã được gửi cho Chi nhánh thực hiện, vậy cơ sở pháp lý nào để Chi nhánh duyệt cập nhật, sang tên thửa đất cho ông Tới?
Hồ sơ ĐKBĐ đất đai do ông Tới thực hiện không có phê duyệt của GĐ Chi nhánh và ý kiến của Trưởng phòng Tài nguyên - Môi trường (TNMT) H.Bình Chánh. Có phải vì biết rõ thửa đất này đã chuyển từ “giao” sang “thuê đất” nên cán bộ Chi nhánh (cụ thể là ông Đặng Việt Hữu) không thực hiện đầy đủ các bước theo quy định, có dấu hiệu của hành vi cố ý làm trái?
Hàng rào và cổng mặt tiền thửa đất 609
Ngày 05/5/2023, ông Nguyễn Lê Tuân - GĐ Chi nhánh VPĐKĐĐ H.Bình Chánh, ký văn bản số 3533/CNBC-ĐKCGCN, thông tin việc Chi nhánh đã có giấy mời ông Huỳnh Công Thanh - nguyên GĐ Chi nhánh và ông Đặng Việt Hữu - nhân viên Chi nhánh để làm rõ một số nội dung liên quan. Chi nhánh sẽ tiếp tục thông tin đến Chuyên đề CATP và PV sau khi có kết quả làm việc với 2 ông này.
Ngày 16/5/2023, GĐ Tuân ký văn bản phúc đáp số 3807/CNBC-ĐKCGCN, nội dung: Ngày 10/5/2023, Chi nhánh đã có buổi làm việc với nguyên GĐ Chi nhánh Huỳnh Công Thanh (người ký duyệt hồ sơ cho ông Tới). Nay, Chi nhánh thông tin nội dung tường trình của ông Thanh như sau:
Vấn đề 1: Thửa đất 609 có diện tích 3.582m2 được UBND H.Bình Chánh cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất (gọi tắt “GCN”) số BĐ 794848 (số vào sổ cấp CH00581) ngày 24/02/2011, mục đích sử dụng “đất trồng cây lâu năm”, thời hạn sử dụng đến năm 2015. Để duyệt cho gia hạn QSDĐ, ông Thanh căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng (HĐCN) thửa đất 609 lập ngày 12/12/2011 giữa vợ chồng bà Dung với ông Tới, có công chứng, giá 15 tỷ đồng. Bà Dung nhận đủ tiền, trao GCN bản chính cho ông Tới. Từ đó, ông Thanh áp dụng Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 xác định “giá trị pháp lý” của HĐCN.
Tiếp đến, ông Thanh căn cứ đơn “ĐKBĐ đất đai, tài sản gắn liền với đất” do ông Tới lập ngày 24/01/2017, được UBND thị trấn Tân Túc xác nhận ngày 17/02/2017, nội dung: “Hiện trạng thửa 609 là đất vườn, không tranh chấp, không thuộc các dự án thu hồi đất, thuận việc gia hạn QSDĐ”.
Vấn đề 2: Theo ông Thanh, QĐ số 1936/ QĐ-UBND điều chỉnh QĐ số 1552/QĐ-UBND ngày 09/4/2011 của UBND H.Bình Chánh, chuyển hình thức sử dụng từ giao sang thuê đất, thời hạn 5 năm, kể từ ngày ban hành QĐ số 1552. Như vậy, sau ngày 09/4/2016, QĐ này đã đủ 5 năm, hết thời hạn cho thuê, nên “không còn hiệu lực thi hành”. Do đó, việc cập nhật sang tên cho ông Tới đúng theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 99, khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
Cựu GĐ quy kết: “Vợ chồng bà Dung đã chuyển nhượng đất cho ông Tới. Vậy mà đến năm 2013, bà Dung tiếp tục đến UBND H.Bình Chánh làm thủ tục giao, thuê đất, có dấu hiệu cố ý lừa dối Nhà nước để làm trái quy định pháp luật, nhằm chiếm đoạt tài sản (QSDĐ) của ông Tới” (?!).
Vấn đề 3: Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 74 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, Chi nhánh VPĐKĐĐ H.Bình Chánh chỉ kiểm tra hồ sơ, xác nhận thời hạn được tiếp tục sử dụng đất vào GCN đã cấp; không ký vào đơn ĐKBĐ chuyển Phòng TNMT H.Bình Chánh thẩm tra. GĐ Chi nhánh không phê duyệt vào đơn ĐKBĐ là thực hiện đúng theo điều khoản vừa nêu.
Việc ký duyệt hồ sơ thửa đất 609 kiểu “2 quên, 3 không” đã được Chuyên đề CATP chỉ rõ trong bài báo “Cái “quyền” của cán bộ đăng ký đất đai” dẫn đến tranh chấp phức tạp. Lẽ ra, khi được mời làm việc, ông Thanh nên giải trình đầy đủ, khách quan, trung trực, đồng thời đề nghị lãnh đạo Chi nhánh VPĐKĐĐ H.Bình Chánh cùng lãnh đạo Phòng TNMT, Chi cục Thuế H.Bình Chánh, UBND thị trấn Tân Túc (tất cả các cơ quan này đều phải “chịu trách nhiệm thi hành” các QĐ của UBND H.Bình Chánh liên quan đến thửa đất 609) khẩn trương kiểm tra toàn diện hồ sơ, phản hồi báo chí theo quy định. Đằng này, ông Thanh tường tình “cắt khúc”, tự cho mình cái quyền hơn cả tòa án, quy kết bà Dung nặng nề, “vô hiệu hóa” QĐ của UBND H.Bình Chánh, “phán” thửa đất 609 của ông Tới(?!).
“Biên bản thỏa thuận về việc vay tiền” lập ngày 12/12/2011
Giấy phép xây dựng do Phòng Quản lý đô thị H.Bình Chánh cấp cho bà Dung
“CỦ ẤU TRÒN, TRÁI BỒ HÒN MÉO” (!)
Để có cơ sở nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện vụ việc, chúng tôi xin tóm lược một số điểm mấu chốt có trong hồ sơ.
Đầu tiên là QĐ số 1552/QĐ-UBND ngày 09/4/2011 của UBND H.Bình Chánh chấp thuận cho bà Ngô Thị Ngọc Dung được chuyển mục đích sử dụng thửa đất 609 bằng hình thức “giao đất” (thời hại 50 năm) để đầu tư xây dựng nhà trưng bày sản phẩm và văn phòng làm việc. Tại điều 2 của QĐ này nêu rõ trách nhiệm của Phòng TNMT: “Chỉnh lý GCN của bà Dung và cập nhật sổ bộ địa chính theo quy định”.
Bà Dung xác định: Ngày 24/5/2011, bà được Phòng Quản lý đô thị H.Bình Chánh cấp giấy phép xây dựng tường rào trên thửa đất 609 với chiều dài 295,34m, cao 2,6m, kết cấu cột bê-tông cốt thép. Ngoài tường rào và cổng, bà còn xây căn nhà, ký hợp đồng với điện lực đặt trạm biến áp, thuê người vào ở, trông coi đất...
Ngày 11/11/2011, UBND TPHCM ban hành QĐ số 5434/QĐ-UBND, duyệt giá trị QSDĐ đối với thửa đất 609 theo giá thị trường là 23,69 tỷ đồng. Bà Dung phải nộp khoản tiền này theo quy định.
Trưng bằng chứng, bà Dung trình bày, do cần tiền để đầu tư xây dựng công trình nên vợ chồng bà đã vay ông Tới 15 tỷ đồng. Số tiền lớn nên ông Tới yêu cầu vợ chồng bà phải ký HĐCN thửa đất 609 ngày 12/12/2011 và giao bản chính GCN số BĐ 794848 nhằm đảm bảo cho khoản vay. Điều này thể hiện rõ trong “biên bản thỏa thuận về việc vay tiền” lập lúc 17 giờ ngày 12/12/2011, có đầy đủ chữ ký, chữ viết của các bên.
Nội dung biên bản xác định: “HĐCN đất ngày 12/12/2011 thực tế là hợp đồng vay tài sản, số tiền vay là 15 tỷ đồng. Để đảm bảo khoản tiền vay, bên A (vợ chồng bà Dung) đồng ý thế chấp GCN số BĐ 794848 cho bên B (ông Tới)”.
Do bà Dung không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính nên có đơn đề ngày 13/12/2012, xin chuyển sang thuê đất, đóng tiền hàng năm. Ngày 24/4/2013, UBND H.Bình Chánh ban hành QĐ số 1936/QĐ- UBND “điều chỉnh QĐ số 1552/QĐ-UBND” với 2 nội dung: Chấp thuận cho bà Dung được chuyển mục đích sử dụng 3.128m2 từ “giao” sang “thuê đất” để đầu tư xây dựng nhà trưng bày sản phẩm và văn phòng làm việc. Thời hạn thuê là 5 năm, kể từ ngày 09/4/2011. Phần 400m2 còn lại chấp thuận cho bà Dung được chuyển mục đích xây dựng nhà ở riêng lẻ. QĐ này là 1 bộ phận không thể tách rời của QĐ số 1552/QĐ-UBND ngày 09/4/2011 UBND H.Bình Chánh.
Thi hành 2 QĐ nêu trên, ngày 04/6/2013, Phòng TNMT H.Bình Chánh và bà Dung đã tiến hành ký hợp đồng “thuê đất” số 11/ HĐTĐ-TNMT. Căn cứ các QĐ của UBND H.Bình Chánh và HĐ thuê đất, Chi cục Thuế H.Bình Chánh ra thông báo thu tiền thuê hàng năm đối với thửa đất 609 suốt hơn 10 năm qua với tổng số tiền hơn 2,2 tỷ đồng. Mới nhất là văn bản số 4655 do Chi cục trưởng Phạm Ngọc Lộc ký ngày 31/5/2023, xác nhận bà Dung đã nộp hơn 274,81 triệu đồng tiền thuê đất năm 2021.
Chi cục Thuế H.Bình Chánh cũng đã ra 2 thông báo cho bà Dung nộp tiền thuê đất năm 2022 (hơn 274,81 triệu đồng) và năm 2023 (hơn 419,45 triệu đồng). Do xảy ra tranh chấp thửa đất giữa vợ chồng bà Dung với vợ chồng ông Tới đã được TAND H.Bình Chánh thụ lý ngày 31/3/2022 nên bà Dung chưa nộp, chờ phán quyết của tòa.
Bà Dung phản ứng: “Diễn biến của vụ việc dẫn đến tranh chấp giữa chúng tôi với vợ chồng ông Tới chưa có phán quyết cuối cùng của tòa án. Vậy mà ông Thanh lại hùng hồn quy kết tôi làm trái quy định pháp luật, đã bán đất năm 2011, đến năm 2013 tiếp tục làm thủ tục giao, thuê đất là “có dấu hiệu cố ý lừa dối Nhà nước, nhằm chiếm đoạt tài sản của ông Tới”. Đây rõ ràng là vu khống, ông Thanh cố tình xúc phạm danh dự vợ chồng tôi nên chúng tôi nhất định phải làm cho ra lẽ...”.
(Còn tiếp...)