Hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Nam Bộ kháng chiến (23/9/1945 - 23/9/2025): Chiến khu bưng biền Đồng Tháp Mười - Một thời để thương, một thời để nhớ

Bài 1: Căn cứ địa kiên cường của hai lần chống thực dân Pháp xâm lược

Thứ Ba, 16/09/2025 10:48

|

Đồng Tháp Mười "cò trắng ngàn năm bay chẳng dứt"

"Ai về Đồng Tháp xa xôi,

Dừng chân tôi gởi đôi lời nhớ nhung.

Ai về ngã Sáu, ấp Trung,

Cho tôi gởi nhớ về trong Tháp Mười".

Chẳng hiểu mấy câu thơ dân gian đó xuất hiện tự bao giờ, cứ mỗi lần vang vọng đến bên tai, khiến cho những chiến sĩ Cách mạng mùa Thu "mang ngang vai nóp với giáo" chợt thấy sống dậy trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về một cánh đồng "cò trắng ngàn năm bay chẳng dứt". Đó là Đồng Tháp Mười "Việt Bắc của Miền Nam" trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết.

Đồng chí Lê Đức Thọ (người ngồi hàng đầu chiếc xuồng thứ nhất) - Bí thư Trung ương Cục miền Nam - đang đi công tác giữa chiến khu Đồng Tháp Mười, tháng 4/1954. Đồng chí Trần Hữu Phước (tác giả bài viết này) là người ngồi đầu tiên trên chiếc xuồng thứ hai

Hơn 60 năm trước đây, đối với cán bộ và chiến sĩ ta, những tiếng "Về Đồng Tháp Mười" có ý nghĩa rất thiêng liêng, giống như hai chữ "Về R" trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước ở chiến khu Bắc Tây Ninh. "Về Đồng Tháp Mười" là được đặt chân lên vùng "thánh địa Cách mạng", được về với "Thủ đô kháng chiến giữa bưng biền". Bức tranh hùng vĩ của chiến khu Đồng Tháp Mười trong cuộc chiến tranh Nhân dân thần thánh, đã được thi sĩ Nguyễn Bính khắc họa trong bản trường ca bất hủ. Ông viết:

"Bảy trăm ngàn mẫu đất

Sớt chia bốn tỉnh miền Nam

Khắng khít biên thùy Chùa Tháp

Nằm trong tay trái Cửu Long Giang

Đồng Tháp Mười!

Đồng Tháp Mười!

Bao la bát ngát

Bưng sậy lên hoang

Mùa nắng đất khô cỏ cháy

Mùa mưa nước ngập lan tràn

Cò trắng ngàn năm bay chẳng dứt

Chân trời bốn mặt rộng thênh thang".

Hơn 300 năm trước đây, những người nông dân lưu tán từ tứ xứ tới đây để khai hoang lập ấp, đã từng gọi cánh đồng này bằng những cái tên dân dã: Láng bông súng, Bàu sen, Đồng dưng, Đồng lác, Lung năng... Sau khi thực dân Pháp thực hiện dã tâm xâm chiếm Nam Bộ, chúng đã cho vẽ lại bản đồ và định danh toàn bộ khu vực Đồng Tháp Mười bằng cái tên tiếng Pháp "Plaine inondée couverte dherbes" (Cánh đồng ngập nước đầy cỏ). Trên các bản đồ vẽ lại sau đó, chúng gọi là "Plaine des Joncs" (đồng lác, đồng cói). Thực ra, chữ Joncs theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả một số chủng loại trong tổ hợp thảo mộc bản địa được tạo nên bởi các loài năn, cỏ mồm, đưng, lác, bàng, lau, sậy, đế, rau dừa, lục bình, điên điển, lúa ma hay lúa trời... mọc dày đặc trên những bưng, lung, bàu, đìa, đầm, trấp, láng và xung quanh các con sông, rạch, kênh, xẻo... ở khắp nơi trên đất Tháp Mười, trở thành nguồn thức ăn và môi trường sống của cá, tôm, rùa, rắn, lươn, ốc... Qua đó tạo nên cảnh quan sinh thái đặc trưng của một trong những vùng đầm lầy hoang dã nổi tiếng trên thế giới. Xét về mặt binh pháp, đây chính là những yếu tố "địa lợi" của quân dân ta trong công cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Đúng như trong kho tàng văn học dân gian đã ghi rõ:

"Tháp Mười năn lác mênh mông,

Tây vô đến đó quyết không đường về".

"Lá tràm xanh che anh giải phóng,

Đánh quân thù sạch bóng xâm lăng".

Theo những câu chuyện truyền khẩu của các cụ bô lão trên đất Tháp Mười, trong những cuộc hành quân càn quét nghĩa quân Võ Duy Dương ngày trước, hàng chục tên lính trong quân đội viễn chinh Pháp đã bị rắn độc cắn chết.

Ngày 23/9/1948, một bình luận viên quân sự đăng bài trên báo Sự thật, đã viết: "Ở núi rừng của chiến khu Việt Bắc, cái mà quân Pháp sợ nhất là sương mù Việt Bắc và muỗi Việt Bắc". Còn ở chiến khu bưng biền Đồng Tháp Mười thì sao? Rõ ràng, không có gì làm cho chúng khiếp đảm hơn là các loài rắn độc, ong vò vẽ, ong lỗ, muỗi, bù mắt, đỉa, vắt... Đúng là một nơi mà ở dưới nước "đỉa lội lềnh tựa bánh canh", còn trên đồng thì "muỗi kêu như sáo thổi" và "cỏ mọc thành tinh", "rắn đồng biết gáy".

Đồng Tháp Mười là vùng đất của tinh thần thượng võ, là căn cứ địa của hai lần chống thực dân Pháp xâm lược

Từ bao đời nay, cho dù lịch sử đất nước đã trải qua bao sự biến đổi thăng trầm, nhưng trong dân gian Đồng Tháp Mười vẫn còn lưu giữ mãi những câu ca dao bất diệt:

"Xứ đâu thị tứ bằng xứ Kinh Cùng

Tràm xanh, củi lục, anh hùng thiếu chi".

"Bao giờ hết cỏ Tháp Mười,

Thì dân ta mới hết người đánh Tây".

Lịch sử đã xác minh, trong khoảng thời gian từ cuộc kháng chiến lần thứ nhất đến cuộc kháng chiến lần thứ hai, Đồng Tháp Mười đã hai lần trở thành căn cứ địa kháng chiến chống Pháp nổi tiếng trên đất nước ta.

Chiến khu Đồng Tháp Mười trong cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất, dưới sự lãnh đạo của vị Tư lệnh nổi tiếng Võ Duy Dương, đã trở thành chiến khu lớn nhất đóng vai trò trung tâm của phong trào đấu tranh võ trang chống Pháp trên địa bàn 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ.

Một điều hết sức lý thú là, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt tại chiến khu Đồng Tháp Mười, ông cha ta hồi giữa thế kỷ XIX và chúng ta ở giữa thế kỷ XX, đều lấy Gò Tháp (Giồng Tháp) để đóng bản doanh của cơ quan lãnh đạo đầu não, đều ra sức tận dụng địa hình hiểm yếu của các huyện Tháp Mười, Mộc Hóa và Tân Thạnh để dấy binh tụ nghĩa và điều hành việc quốc kế quân cư, đều dựa vào sức dân và sử dụng các thủ thuật du kích chiến tranh để đánh giặc. Theo các câu chuyện kể của những cụ lão nông trong vùng, nghĩa quân của các "quan đàng cựu" trước đây cũng như chiến sĩ vệ quốc quân của chúng ta sau này, đều sử dụng cây tầm vông vạt nhọn, thanh mã tấu và vai mang chiếc nóp để tiến ra sa trường.

Chiếc nóp làm từ cỏ bàng thường được bộ đội ta sử dụng trong thời kỳ chống Pháp

Không thể không nhắc đến một sự kiện lịch sử trong giai đoạn Cách mạng thoái trào, sau khi cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ bị thất bại vào hạ tuần tháng 11/1940, một số chiến sĩ cộng sản bất khuất kiên trung hồi ấy, đã vào Đồng Tháp Mười, đến vùng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ, Cái Bèo và Gò Tháp để cất nhà, lên liếp trồng chuối, dừa, đu đủ, hành, củ kiệu... để làm bình phong che mắt địch nhằm móc nối với các địa phương, dần dần khôi phục lại tổ chức cơ sở Đảng, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945.

Đồng Tháp Mười là mảnh đất quê hương của bốn mùa sen nở, là nơi xuất xứ của những chiếc nóp kháng chiến huyền thoại

Nói tới quần thể thực vật phong phú ở vùng Đồng Tháp Mười gắn bó mật thiết với cuộc sống, công tác và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ ta trong những tháng năm kháng chiến gian khổ, ngoài cây tràm, chúng ta không thể không nhắc đến cây sen, cây bàng, cây lúa trời (còn gọi là lúa ma)... Nói tới cây sen, trước hết nói đến tình cảm thiêng liêng của đồng bào Nam Bộ đối với Bác Hồ kính yêu:

"Tháp Mười đẹp nhất bông sen,

Nuớc Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ".

Có thể khẳng định rằng, trên đất nuớc này, không đâu có nhiều sen như ở Đồng Tháp Mười. Có những chuyến đi công tác, cán bộ chiến sĩ ta đã phải chống xuồng vượt qua những láng sen, bàu sen, đầm sen mọc nối tiếp nhau hàng năm bảy ki-lô-mét. Do điều kiện đặc thù về thổ nhưỡng và khí hậu, sen ở Đồng Tháp Mười nở quanh năm.

Còn nói tới cây bàng, là nói đến vật bất ly thân của bộ đội và cơ quan trong 9 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ - đó là chiếc nóp. Cây bàng thân tròn từ gốc đến ngọn, không có lóng, đốt, giống như cây lác (cói), nhưng khác cây lác là ở chỗ ruột rỗng. Cây dài khoảng 1,30m - 1,70m, khi phơi khô, bàng có độ dai, dẻo, ít thấm nước. Ở Đồng Tháp Mười, hàng trăm năm nay, Nhân dân ta đã biết dùng cọng bàng để đan đệm thay chiếu nằm, để phơi các sản phẩm nông nghiệp, đan nón, giỏ, túi xách, cặp đựng sách vở cho học trò, bao bì dùng để lợp nhà... Nhưng điều có ý nghĩa hơn cả là, cây bàng đã vĩnh viễn đi vào lịch sử của cuộc chiến tranh Nhân dân thần thánh, vì nó đã được những bàn tay khéo léo của các cô thôn nữ chằm thành những chiếc nóp để thay mùng chống muỗi cho cán bộ và chiến sĩ ta trên chiến trường. Qua bài hát bất hủ của Tạ Thanh Sơn, chiếc nóp đã trở thành biểu tượng khí phách Anh hùng của người chiến sĩ Vệ quốc đoàn trong những ngày đầu khói lửa của cuộc Nam Bộ kháng chiến "Nóp với giáo mang ngang vai, nhưng thân trai nào kém oai hùng".

(Còn tiếp...)

Bình luận (0)

Lên đầu trang