Đó là buổi chiều ngày 8/5/41, mẹ tôi từ Sài Gòn về, bà vừa bước vào nhà, bất giác Đội Cang xuất hiện, hắn là tên phản bội tổ chức, trở thành tay sai đắc lực cho giặc, một tên chỉ điểm khét tiếng, theo sau hắn là tên cò Risa và bọn lính hung hãn ập vào nhà như một cơn lốc. Chúng lục xét tứ tung căn nhà lá của ngoại tôi, không bỏ sót dù một kẽ vách, một nuộc lạt. Sau một hồi tung hoành, bọn chúng không tìm được gì, ngoài bộ đồ đàn ông còn thơm mùi vải mới, được may bằng chất vải ka ki, màu cỏ úa, mà bà con tiểu thương vừa gởi tặng ông Võ Hoàng chiều qua, ngoại tôi chưa kịp chuyển đi. Đội Cang cầm bộ đồ tang vật trên tay vẻ đắc thắng, giọng giễu cợt: nhà toàn đờn bà con gái, sao lại có đồ đờn ông ở đây zậy ha? Mẹ tôi giọng ráo hoảnh: Đồ của anh trai tôi. Đội Cang cười mỉa, gằn giọng: Anh trai cô? Chứ không phải của thằng Năm Giáo (bí danh của đ/c Võ Hoàng)? Mẹ tôi nói kháy: Thầy Đội muốn trắng thì trắng, muốn đen thì đen, thứ gì mà chả được, lọ còn quanh co. Đội Cang như bị chạm nọc, mắt long lên sục sôi. Cò Risa lúc nấy mới lên tiếng: Đưa cô giáo đi. Vậy là Mẹ tôi bị giặc bắt với tang chứng là bộ đồ đàn ông ở trong nhà.
Sáng hôm sau, Mẹ tôi bị điệu lên phòng thẩm vấn. Đội Cang, tên ác quỉ đội lốt người, hắn không từ bất cứ thủ đoạn quái gở nào mà hắn có thể nghĩ ra để tra tấn đồng bào mình, ví như hắn từng nấu dầu cá sôi đổ vào rún… của chị Nguyễn Thị Trinh em gái đồng chí Nguyễn Văn Trà. Và bây giờ, Đội Cang chính là người trực tiếp tra khảo mẹ tôi. Lúc đầu hắn cố tỏ ra mềm dẻo, gặn đi hỏi lại chỉ mỗi một câu: Năm Giáo có phải là Võ Hoàng bí thư tỉnh ủy không? Trước sau mẹ tôi cũng chỉ lắc đầu, tôi không biết. Đến ngày thứ ba, hắn lộ nguyên hình con ác thú, dùng đủ cực hình mà hắn đã có sẵn trong bộ sưu tập tra tấn tù nhân, phủ lên người mẹ tôi, khiến bà nhiều lần chết đi sống lại, thân thể bầm dập tả tơi không khác nào cọng cải non bậc góc giữa cơn nắng dữ. Nửa đêm bà tỉnh dậy, mơ mơ hồ hồ thấy mình nằm bẹp dí trên nền xi măng khô cứng giữa xà lim nồng nặc mùi tanh của máu, bà cảm thấy ngạt thở rồi lại thiếp đi, gần sáng bà tỉnh dậy, toàn thân ê ẩm đau nhức, cổ họng khát cháy, bà cố nhoài người về phía lon nước, tay bà run run cầm lấy chiếc lon, cẩn trọng đưa lên môi hớp từng chút một, chút nước ít ỏi thắm qua cổ họng làm bà cảm thấy chút dễ chịu. Bà nằm xuống, ý thức bắt đầu quay trở lại, bà điểm lại tình hình mấy ngày qua, tự rút ra kết luận có chút tự trào, địch tra tấn hung ác, ta vẫn giữ được khí tiết, bước đầu ta đã thắng. Nhưng cuộc chiến của bà không đơn giãn chỉ có đối đầu với tên ác quỉ, mà còn phải đối mặt với kẻ phản bội, biết rõ nội tình của tổ chức, phải tìm cách để được chúng đưa về bên khám lớn. May mắn chiều hôm sau, ngoại tôi được phép đem cơm vào cho con gái, không quên kèm theo gói hột é, món ăn vặt thường ngày mẹ tôi rất thích. Cầm gói hột é trên tay, Mẹ tôi mừng như người chết đuối vớ được phao cứu sinh. Phương tiện đấu tranh tuyệt thực đây rồi, bà thầm kêu lên. Ngay hôm sau, Mẹ tôi tuyên bố tuyệt thực, ra yêu sách đòi được chuyển qua khám lớn. Cuộc đấu tranh không biết đã đến ngày thứ mấy, trải bao nhiêu cuộc thẩm vấn đòn roi, Mẹ tôi vẫn không hé răng nửa lời. Cuối cùng, Đội Cang đành chuyển Mẹ tôi qua khám lớn, với hồ sơ đề vỏn vẹn: “Vợ của tên cầm đầu cộng sản tỉnh Trà Vinh”. Sáng ngày đầu tiên ở Khám Lớn, Mẹ tôi bị đưa đến tòa án để thẩm cung lại, tên Jura chánh án mới đổi về Trà Vinh, có vợ Việt, nói thạo tiếng ta, suốt buổi sáng thẩm vấn hắn vẫn không moi thêm được gì ở Mẹ tôi, đến chiều hắn bực dọc ra lệnh đưa Mẹ tôi trở về khám.

Bà Hồng Châu (ngồi giữa), phu nhân của nhà thơ Nguyễn Bính
Mười giờ sáng hôm sau, Mẹ tôi bị giải qua Sở mật thám Cần Thơ, nơi đây cũng khét tiếng về sự tàn bạo, nhưng dù sao cũng không phải va vào tay Đội Cang. Trận chiến đầu tiên tại đây, Mẹ tôi không bị tra tấn bằng roi vọt, mà chúng buộc bà phải chứng kiến đòn tra tấn tàn khốc đối với các đồng chí của bà, ông Ba Lọ là một trong số người đó đã vĩnh viễn ngã xuống, nhưng họ vẫn giữ tròn khí tiết người cộng sản. Trước tinh thần bất khuất của những người đồng chí, ngón đòn tra tấn tinh thần của bọn chúng hoàn toàn phá sản. Cũng chính tại cái nơi địa ngục trần gian nầy, Mẹ tôi đã lần lượt gặp lại nhiều gương mặt đồng chí thân quen, có người lướt qua, có người lưu lại dấu tích trên nền đá, vách xà lim. Một chiều chạng vạng, chúng giải về một cô gái trẻ, dáng người mảnh khảnh, bé xíu, dì Hai Liên, con gái nuôi của ông Tạ Uyên bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, cô em bạn của Mẹ tôi. Tối đó, hai người bị còng chung một chiếc còng, nằm dưới đít thang lầu vì phòng giam không còn chỗ. Bất chấp hoàn cảnh tù tội, hai người bạn gặp lại nhau, nằm trên nền đất lạnh, hồn nhiên tâm sự. Thời gian ở Sở mật thám, Mẹ tôi và dì Hai nếm đủ mùi tra khảo, bọn chúng vẫn không moi được gì thêm ở họ. Dì Hai Liên bị giải qua Khám lớn Cần Thơ. Riêng mẹ tôi bị trả lại bót Trà Vinh, vì lời khai, Đội Cang muốn lấy bà làm bé không được nên đặt điều vu khống. Vừa thấy mặt Mẹ tôi, Đội Cang gằn giọng: Cô làm trò phù phép gì nữa đây, làm cả trăm vụ rồi, mới thấy lần đầu, phạm nhân giải đi mà bị trả về. Ba ngày sau đó, Mẹ tôi bị giải lên Sở mật thám Sài Gòn, bà bị giam vào xà lim I - bót Catinat, rồi lần lượt qua xà lim V xà lim X, nếm đủ mùi tra khảo. Ít lâu sau, dì Hai Liên cũng bị giải về đây, hai người bạn lại chung xà lim vỏn vẹn 4m2. Họ tha hồ tâm sự, tha hồ chăm sóc lo lắng cho nhau mỗi khi bị đòn thù tra tấn.
Cuối năm 1943, Mẹ tôi bị đưa về quản thúc ở Trà Vinh, mỗi tháng phải trình diện sở mật thám hai lần, với nửa người bên trái bị liệt, di chứng của những ngày bị tù đày. Việc Mẹ tôi trở lại Trà Vinh, như hổ về rừng, tuy còn yếu, còn trong vòng kềm tỏa của giặc, nhưng bà vẫn tìm đủ mọi cách bí mật móc nối với tổ chức, nắm lại cơ sở, gây dựng lại phong trào. Mùa xuân năm Ất Dậu (1945), cuộc chiến tranh thế giới lần II đang ở vào giai đoạn cuối. Máy bay đồng minh không ngờt quần đảo trên bầu trời Sài Gòn, bom rơi bên Xóm Chiếu, Cầu Kho, Phú Nhuận, Chợ Bến Thành, chợ Gạo - Mỹ Tho… làm rúng động tâm tư cả nước. Phong trào và khí thế quần chúng cách mạng sục sôi, náo nức chờ cuộc đổi đời. Mẹ tôi được cấp trên phổ biến tình hình và chủ trương của Đảng nhằm chuẩn bị cho công cuộc cướp lấy thời cơ giành lại chính quyền. Ngày 9/3/45, Nhựt đảo chính Pháp, buổi sáng hôm ấy Mẹ tôi được phân công chuẩn bị bài phát biểu công khai kêu gọi chị em phụ nữ tham gia tổ chức cách mạng cứu nước. Nhiều cuộc meeting diễn ra khắp nơi, ông Nguyễn Duy Khâm đảm trách kêu gọi giới Thanh niên, sau Cách mạng tháng Tám, ông là Chủ tịch Ủy ban hành chánh lâm thời tỉnh,và là đại biều Quốc hội đầu tiên của tỉnh Trà Vinh. Mẹ tôi được phân công bên giới phụ nữ, các mẹ, các bà các chị em lần đầu nghe có phụ nữ diễn thuyết, thấy lạ nên kéo nhau đến xem đông nghịt. Mẹ tôi đứng trên chiếc ghế đẩu, và nói bằng tất cả niềm cảm xúc quên luôn tờ giấy đã soạn sẵn, nhiều chị em nghe lời kêu gọi, hào hứng ký tên tham gia tổ chức. Khi chính quyền Trà Vinh về tay Nhân dân, Mẹ tôi được chỉ định làm đoàn trưởng phụ nữ tỉnh, kiêm Phó ban Trinh thám đỏ, dưới sự lãnh đạo của ông Phạm Thái Bường.
Có những người không hiện diện trong tượng đài, không có tên mình trên trang sử vàng chói lọi, nhưng sự hiện diện lặng thầm của họ góp phần làm nên những điều kỳ vĩ, làm nên những cuộc đổi đời, thay đổi vận mệnh đất nước. Mẹ tôi là một trong số hàng triệu triệu người dân nước Việt như thế.