Chuyện kể đội văn nghệ Hương mùa mai
Chúng tôi gặp ông tại nhà riêng trên Đảo Ngọc. Chàng thiếu niên Trần Trường Sơn (SN 1957, quê H.Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre cũ) của hơn 50 năm trước, khi chưa tròn 14 tuổi, theo tiếng gọi của non sông lên đường giữa "mùa hè đỏ lửa". Mới đó mà nay ông đã gần 70 tuổi. Tuy da dẻ sậm màu nắng biển, nhưng khi nhìn sâu dường như ông vẫn còn trẻ, thậm chí rất trẻ ở tâm hồn.
Ông kể, lúc mới đi theo cách mạng, tổ chức phân công vào Ban an ninh tỉnh Bến Tre. Khi đó, Ban có 6B, ông ở B5. Mấy tháng sau, tổ chức phát hiện ông có khiếu âm nhạc nên gửi vào chiến khu ở Giồng Trôm để bồi dưỡng nhạc lý. Sau khóa học 3 tháng, ông trở về đơn vị làm công tác phong trào tại đội văn nghệ Hương mùa mai.
Hiệp định Paris ký kết, chiến sự miền Nam có phần lắng dịu, phong trào văn nghệ ở một vài nơi trong vùng giải phóng hoạt động bán công khai. Ông Trần Văn Chiến - Phó ty An ninh, một người rất khoái văn nghệ, phụ trách phong trào. Ông Chiến vận động anh em sáng tác cải lương, vọng cổ, viết kịch... chủ đề ca ngợi Đảng, Bác Hồ và một số kịch bản có nội dung trừ gian, diệt ác, rồi cùng nhau dàn dựng. Các vở diễn được người dân phấn khởi đón nhận.

Thú vui của ông Trần Trường Sơn sau những ngày đi biển trở về
Đến năm 1975, Hương mùa mai trở thành một trong hai tổ chức nghệ thuật mạnh trong tỉnh. Lúc bấy giờ, quản lý Hương mùa mai là ông Nguyễn Hữu Trí, quyết định thành lập luôn đoàn văn nghệ chuyên nghiệp, trực thuộc Công an tỉnh Bến Tre. Được tin, Ty Văn hóa - Thông tin phản đối quyết định này. Cho rằng, cấp tỉnh không thể có hai đoàn hát, đầu tư dàn trải, tốn kém ngân sách. Sau nhiều tranh cãi, đoàn Hương mùa mai vẫn tồn tại do có nhiều cống hiến và rất được công chúng yêu thích.
Mấy năm sau, đoàn đổi tên thành Thanh kiếm Đồng Khởi. Ông Sơn được đề bạt làm phó đoàn; ông Vũ Hùng từ Đoàn dân công Quân Khu 8 về làm trưởng đoàn. "Đặc sản" của đoàn khi ấy là các vở diễn: "Tìm lại cuộc đời" của soạn giả Huy Lan; "Trận tuyến thầm lặng" của soạn giả Hoa Phượng; "Khách sạn Hào Hoa" của soạn giả Trần Hà... Trong 3 vở này, ông Sơn vào vai cán bộ nằm vùng hết sức hoàn hảo. Song, nổi bật nhất là vai chú Năm trong vở "Khách sạn Hào Hoa" đã mang về cho ông Huy chương bạc tại Liên hoan Hội diễn sân khấu do Bộ Nội vụ tổ chức.
Ông Sơn phụ trách đoàn được 4 năm, tổ chức rút về cho đi học nghiệp vụ rồi chuyển sang ngành an ninh, Công an Bến Tre. Năm 1988, ông xin nghỉ để về nhà chăm sóc cha già thường xuyên bệnh tật. Hơn một năm sau, ông rời Giồng Trôm sang Núi Cấm (An Giang) để mưu sinh. Trong những tháng ngày xa xứ, buồn vui lẫn lộn, ông gặp một số anh em chơi ĐCTT tâm đầu ý hợp, sẵn có "máu văn nghệ" nên thường xuyên được mời tham gia những bữa tiệc liên hoan văn nghệ tận thâu đêm.
Tiếng đàn không lạc điệu
Năm 1991, được người quen mách, ông Sơn từ biệt Thất Sơn, độc hành đến "vùng đất hứa" ngoài khơi biển Tây, đó là Đảo Ngọc. Sau hai ngày quá giang thuyền buôn, ông đặt chân lên đảo. Không một bóng người thân, chỉ thấy trên rừng, dưới bốn bề biển cả mênh mông. Nhìn lại hành trang vài ba bộ đồ sờn cũ, tài sản quý nhất có chăng là cây đàn bầu ông sắm ở An Giang. Ông nghĩ, tiếng đàn làm ấm lòng trong lúc đi xa, nhưng không thể làm no cái bụng. Dọ dẫm tìm đến dân chài hỏi kế mưu sinh, ông gặp một người tốt bụng khi đó là anh Hoàng ở xã Hàm Ninh, Phú Quốc, dìu dắt bước vào nghề biển.
Trước mỗi chuyến ra khơi lặn mò sò điệp, đồn đột, ông Sơn mang cây đàn đến gửi cho ông Từ ở Dinh Cậu, thị trấn Dương Đông. Mỗi chuyến đi có khi mất cả tháng trời, lúc về ghé qua lấy cây đàn chơi mươi bửa, đến ngày đi lại mang ra gửi. Ông không nhớ mình gửi bao nhiêu lần, nhưng nhờ có cây đàn hòa nhịp với dân chài nên ông quen biết với nhiều anh em khác trên đảo. Và, cũng nhờ tiếng đàn mà cuộc sống trên đảo của ông dần ổn định.

Ở tuổi gần 70, mang trong mình nhiều bệnh tật, nhưng lúc nào ông cũng ưu tư trước dàn nhạc cụ của mình
Một người dân tốt bụng trên đảo cho ông mấy chục mét đất cất nhà. Ông bà xưa nói, an cư rồi mới lập nghiệp. Vừa an cư xong, tiếng đàn của ông vang tới thị trấn Dương Đông. Ông Quốc Long - Giám đốc Trung tâm Văn hóa Phú Quốc, một người rất mê ĐCTT đến gặp ông Sơn, gợi ý ra giúp sức thành lập CLB ĐCTT. Ông Sơn gật đầu không chút do dự.
CLB hoạt động rôm rả vài năm thì ông Quốc Long nghỉ hưu. Thiếu bàn tay chăm sóc tận tụy nên ít năm sau CLB tan rã. Ông Sơn vác đàn về nhà, nhảy xuống ghe tiếp tục mưu sinh.
Năm 1999, ông Quốc Long dù đã nghỉ hưu vẫn cùng ông Sơn và một số anh em khác tham dự liên hoan ĐCTT do tỉnh Kiên Giang tổ chức. Lần tham dự đó, ông Sơn đoạt giải độc tấu đàn bầu với bài "Đoản khúc lam giang". Những lần liên hoan tiếp theo, tỉnh đều có mời nhưng do đi lại cách trở đò giang, tốn kém, nên ông từ chối tham gia.
Đầu năm 2011, trong một lần đi điền dã ở ĐBSCL để tìm tư liệu hoàn chỉnh hồ sơ ĐCTT đệ trình lên Unesco, PGS.TS Lê Văn Toàn - Viện trưởng Viện âm nhạc Quốc Gia phát hiện ông Sơn chơi 5 loại nhạc cụ dân tộc: ghi ta phím lõm, đàn bầu, đàn kìm, đàn sến và đàn tranh, cùng nhiều nghiên cứu chuyên sâu về âm nhạc ĐCTT. Ngoài trao đổi chuyên môn về công tác tự nghiên cứu, truyền nghề cho các học viên trên đảo, PGS.TS Lê Văn Toàn còn tổ chức ghi âm các bản đàn, ghi hình một số chương trình biễu diễn ĐCTT do ông Sơn thực hiện.
Ông Sơn tâm sự, xuất thân là một tay chơi tân nhạc, nhưng sau đó thấy ĐCTT có cái gì đó chất phác, gần gũi với người Phương Nam, từ trang phục, ca từ, tính cách, đến những câu chuyện đời thường cũng được các soạn giả đưa vào trong sáng tác của mình. Thế nên bắt đầu từ những năm 1980, ông chuyên tâm nghiên cứu thể loại âm nhạc dân tộc này qua các tài liệu của cố GS.TS Trần Văn Khê; TS. Nguyễn Thuyết Phong. Với bản chất của một người lính, ông đã kiên trì, thận trọng và chịu khó học hỏi. Từ chỗ sử dụng một nhạc cụ, giờ ông đã chơi thành thạo nhiều nhạc cụ. Từ chỗ dày công âm thầm nghiên cứu, ông nhận thấy âm nhạc ĐCTT là "tâm tấu", tức là trong hòa đàn phải lấy cái tâm làm cảm hứng chủ đạo mới khiến người nghe cảm thông, rồi dần xích lại gần nhau. Từ đó, ông nghiệm ra rằng, ĐCTT là sản phẩm của tâm hồn, một nghệ thuật tinh hoa độc đáo của dân tộc. Đến với ĐCTT phải bằng tài năng, trí tuệ, chứ không thể đem nó ra chơi đùa một cách tùy tiện mà không có chút tự tôn dân tộc.