Từ lời khai ban đầu…
Như Chuyên đề (Báo) CATP phản ánh, sau hơn 8 năm, vụ án trải qua 6 phiên tòa và 3 lần kháng nghị với những nhận định "tréo ngoe", lộ rõ dấu hiệu oan sai. Chồng của bà Mai Hoàng Oanh uất ức, ngã bệnh rồi qua đời, trên tay vẫn cầm bản án!
Theo hồ sơ, vụ án được tóm tắt như sau: Năm 2014, bà Oanh cùng chồng là ông Đỗ Văn Thiệt (SN 1973, qua đời ngày 20/4/2021) được bà Lê Thị Kim Bằng cho vay 1 tỷ đồng, thời hạn 12 tháng, để trả nợ ngân hàng, giải chấp hai giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất (QSĐĐ) thửa số 522 và thửa số 523 tại P.Tân Phước Khánh đứng tên vợ chồng bà Oanh.
Bản tự khai ngày 03/01/2017 của
bị đơn Lê Thị Kim Bằng
Nguyên đơn Mai Hoàng Oanh đứng trước phần đất tranh chấp
Ngày 20/7/2014, hai bên ký hợp đồng (HĐ) đặt cọc 1,8 tỷ đồng để bán 2 thửa đất trên với giá 2 tỷ đồng. Bà Oanh chứng minh đây là HĐ "khống" cho khoản vay 1 tỷ đồng, kèm 800 triệu lãi (6,5%/tháng).
Ngày 08/8/2014, hai bên ký HĐCN 2 thửa đất trên. Bà Oanh chứng minh 2 HĐCN này là "giả tạo" nhằm che dấu quan hệ "vay tài sản". Về giá: Thửa đất 522 với diện tích 331m2 nhưng chỉ ghi giá 62 triệu đồng (thấp hơn cả bảng giá nhà nước); thửa đất 523 với 365m2 ghi giá 620 triệu đồng. Trong khi giá trị hai thửa đất hơn 4 tỷ đồng. Vì là HĐ "giả tạo" nên bà Bằng không trả tiền mua đất cho bên bán.
Về đối tượng mua bán: Cả hai HĐ chỉ chuyển nhượng đất, trong khi trên thửa đất 523 có căn nhà cấp 4 (khoảng 120m2), phía trước có ki-ốt cho thuê và công trình phụ (khoảng 200m2); trên thửa đất 522 có nhà xưởng (khoảng 200m2).
Vì HĐCN "giả tạo" mới có thời hạn 12 tháng, nhưng bà Bằng đã âm thầm sang tên hai thửa đất, được UBND huyện Tân Uyên (sau lên TX, và nay là TP.Tân Uyên) cấp hai GCN số CH 05155 (thửa 522) và số CH 05156 (thửa 523) ngày 22/4/2015.
Vợ chồng bà Oanh khởi kiện, yêu cầu hủy 2 HĐCN đất và 2 GCN, được TAND TX.Tân Uyên thụ lý ngày 20/12/2016.
Ngày 03/01/2017, bị đơn Bằng viết bản tự khai, xác định: "Năm 2014, ông Thiệt - bà Oanh vay tôi 1 tỷ đồng, lãi suất 1,5%/tháng, để trả nợ ngân hàng. Do không làm giấy vay tiền nên tôi yêu cầu nguyên đơn lập HĐCN cho tôi 2 thửa đất 522 và 523 để làm tin. Sau khi vay tiền, nguyên đơn không trả lãi nên tôi sang tên 2 thửa đất, được UBND TX.Tân Uyên cấp GCN ngày 22/4/2015".
Bị đơn khai tiếp: "Ngày 30/10/2014, tôi cho nguyên đơn vay thêm 260 triệu đồng, lãi suất 3% tháng, thời hạn 6 tháng. Ngày 05/12/2015, nguyên đơn vay thêm của tôi 2,6 tỷ đồng, lãi suất 1% tháng. Trong thời hạn 1 năm, nguyên đơn trả hết nợ gốc và lãi thì tôi làm thủ tục sang tên, trả lại 2 thửa đất cho họ. Ngược lại, thì xem như họ đồng ý chuyển nhượng cho tôi hai thửa đất và tài sản trên đất.
Sau 3 lần vay, nguyên đơn đã nợ tôi 3,86 tỷ đồng, nhưng do tính toán nhầm, tôi đã viết là 3,68 tỷ. Tôi thấy nguyên đơn không còn khả năng trả nợ nên tôi đồng ý nhận chuyển nhượng hai thửa đất và tài sản trên đất để cấn trừ nợ mà không yêu cầu trả lãi".
Tại buổi hòa giải ngày 13/3/2017 do TAND TX.Tân Uyên tổ chức, bị đơn Bằng có lời khai hoàn toàn giống với nội dung bản tự khai ngày 03/01/2017.
… Đến lời khai lại bị "bắt bài"
Lời khai của bà Bằng rất rành mạch, chi tiết. Sau 2 tháng 10 ngày, bị đơn tiếp tục giữ nguyên lời khai khi Tòa án tiến hành hòa giải. Tuy nhiên, ngày 27/6/2017, bị đơn có bản tự khai mới, phủ nhận lời khai trước đây: "Do trình độ văn hóa thấp, nhận thức pháp luật hạn chế, đồng thời tôi có bệnh về "tâm thần kinh", thường xuyên nhức đầu, không thể suy nghĩ quá nhiều. Từ năm 2015 đến nay, tôi vẫn còn điều trị bằng thuốc và thời gian trên giữa tôi và chồng tôi thường xuyên gây gổ, tâm lý tôi không được ổn nên nội dung tự khai là không chính xác" (?!).
Từ đó, bà Bằng yêu cầu Tòa án hủy bỏ lời khai trước đây. Bị đơn cho rằng: Nguyên đơn thỏa thuận bán hai thửa đất 522 và 523 với giá 2 tỷ đồng, cùng toàn bộ tài sản trên đất giá 1,68 tỷ đồng. Bà Bằng đã thanh toán cho họ 3,68 tỷ đồng (không phải "tính toán nhầm từ 3,86 tỷ đồng thành 3,68 tỷ” như bản khai trước?).
Theo bản khai mới, ngày 20/7/2014, nguyên đơn ký giấy đặt cọc bán đất, bị đơn đã giao 1,8 tỷ đồng. Đến ngày 08/8/2014, hai bên ra ký công chứng 2 HĐCN đất. Bà Bằng được cấp GCN ngày 22/4/2015. Do nguyên đơn chưa có chỗ ở mới nên bị đơn cho "ở nhờ"... Theo bà Bằng, các khoản vay của nguyên đơn không liên gì quan đến 2 HĐCN đất.
Nghiên cứu toàn diện hồ sơ, TAND TX.Tân Uyên đã xác định rõ tại Quyết định (QĐ) số 08/2018/QĐCVA-DS ngày 27/3/2018. Thứ nhất, cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận số tiền 1 tỷ đồng do bà Bằng cho vợ chồng bà Oanh - ông Thiệt vay để trả nợ ngân hàng. Đây là tình tiết không phải chứng minh.
Thứ hai, 2 HĐCN ngày 08/8/2014 thể hiện: Các đương sự chỉ thỏa thuận chuyển nhượng QSDĐ, không thỏa thuận bán tài sản gắn liền trên đất. Bà Bằng được cấp GCN ngày 22/4/2025, không thể hiện nhà ở và công trình xây dựng khác trên hai thửa đất số 522 và 523.
Thứ ba, ngày 05/12/2015, vợ chồng bà Oanh viết giấy cam kết thỏa thuận mượn bà Bằng 2,6 tỷ đồng, đóng lãi 26 triệu đồng/tháng, thời hạn 1 năm trả vốn. Bà Bằng phải ký HĐ giao trả tài sản cho vợ chồng bà Oanh. Nếu không thực hiện đúng thì bà Bằng được quyền lấy đất, nhà xưởng hoặc có quyền bán để thu hồi. Do đó, có cở sở xác định việc bị đơn cho nguyên đơn vay tiền có liên quan đến 2 HĐCN ký ngày 08/8/2014.
Thứ tư, ngày 12/4/2016, hai bên ký giấy "mua bán QSDĐ - Xưởng, nhà cửa tài sản trên đất", nội dung: Ông Thiệt - bà Oanh đồng ý bán 699m2 đất (thửa 522 và 523 cộng lại) và tài sản gắn liền trên đất, luôn đồ nội thất gia dụng trong nhà với giá 3,68 tỷ đồng. Tuy nhiên, bà Bằng không cung cấp được chứng cứ đã giao đủ 3,68 tỷ đồng cho nguyên đơn.
Thứ năm, bị đơn xác định, khi ký HĐCN, bà Bằng đã biết ông Nguyễn Văn Hiếu đang thuê căn ki-ốt. Do bị đơn khó khăn nên bà Bằng đồng ý để ông Hiếu tiếp tục đóng tiền thuê nhà cho bà Oanh. Đến ngày 15/01/2016, bà Bằng và ông Hiếu ký lại HĐ thuê nhà và ông này đã đóng tiền cho bà.
Đến ngày 12/4/2016, nguyên đơn bàn giao nhà và hai thửa đất cùng các công trình phụ, vật dụng trong nhà. Trong đó, có căn ki-ốt mặt tiền đường, bị đơn đã cho ông Nguyễn Văn Hiếu thuê bán thiết bị điện thoại. Bị đơn đã thanh toán số tiền còn lại, gồm 200 triệu đồng tiền đất và 1,68 tỷ đồng tiền mua toàn bộ tài sản.
Ông Hiếu khai: Từ năm 2013 đến tháng 12/2016, ông thuê ki-ốt của bà Oanh, đóng tiền thuê mỗi tháng cho bà Oanh hoặc bà Nguyễn Thị Rẻn (mẹ bà Oanh). Sang năm 2017, bà Bằng yêu cầu ông phải đóng tiền cho bà, nếu không thì không cho thuê nhà nữa. Do đó, ông Hiếu đã ký lại HĐ thuê nhà với bà Bằng vào ngày 15/01/2017.
Như vậy, bà Bằng khai đã ký HĐ thuê nhà với ông Hiếu ngày 15/01/2016 là không phù hợp.
TAND TX.Tân Uyên kết luận: Từ những phân tích trên có đủ cơ sở khẳng định, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Hai HĐCN ngày 08/8/2014 vô hiệu do giả tạo.
Rồi xử ngược…
Kết luận bằng văn bản TAND TX.Tân Uyên rất rõ ràng, căn cứ vào hồ sơ vụ án đã được thẩm tra. Việc bà Bằng nại lý do có bệnh về "tâm thần kinh" để phủ nhận lời khai "trước sau như một" không được chấp nhận. Lạ thay, tại bản sơ thẩm lần 1 ngày 15/10/2020, TAND TX.Tân Uyên bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; chấp nhận phản tố của bị đơn. TAND tỉnh Bình Dương mở phiên tòa phúc thẩm lần 1 ngày 28/01/2021, tuyên y án sơ thẩm.
QĐ số 08/2018/QĐCVA-DS ngày 27/3/2018 của TAND TX.Tân Uyên
Ngày 03/6/2021, Viện trưởng VKSND Cấp cao tại TPHCM ký QĐ kháng nghị GĐT lần 1, đề nghị hủy cả hai bản án nêu trên do 2 HĐCN có dấu hiệu giao dịch giả tạo nên bị vô hiệu. TAND Cấp cao tại TPHCM tuyên Bản án GĐT lần 1 số 21/2022/QĐ-GĐT ngày 26/01/2022: Chấp nhận kháng nghị, hủy toàn bộ 2 bản án để xét xử lại.
TAND TX.Tân Uyên tuyên Bản án sơ thẩm lần 2 số 102/2022/DS-ST ngày 30/12/2022 (Bản án 102), giống Bản án sơ thẩm lần 1. Bản án này bị VKSND TX.Tân Uyên ký QĐ kháng nghị, theo hướng vô hiệu 2 HĐCN do giả tạo.
TAND tỉnh Bình Dương tuyên Bản án phúc thẩm lần 2 số 270/2023/DS-PT ngày 04/7/2023 (Bản án 270): Tuyên bố 2 HĐCN đất bị vô hiệu do giả tạo. Nguyên đơn phải thanh toán cho bị đơn 5,075 tỷ đồng. Bị đơn có trách nhiệm giao trả nguyên đơn 2 thửa đất và tài sản trên đất...
Tại phiên tòa ngày 08/5/2024, TAND Cấp cao tại TPHCM với HĐXX gồm 3 Thẩm phán Võ Văn Cường (Chủ tọa), Trần Văn Châu và Hoàng Thanh Dũng, tuyên Bản án GĐT lần 2 số 117/2024/DS-GĐT: Hủy Bản án 270, giữ nguyên Bản án 102 của tòa sơ thẩm.
Người phụ nữ mất chồng, uất nghẹn: "Bản án GĐT lần 2 lộ rõ dấu hiệu oan sai chất chồng khi bỏ qua nhiều chứng cứ quan trọng, nhất là kết luận giám định (KLGĐ) số 376/PC09 ngày 18/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, xác định: Dòng chữ "Bên bán đã nhận đủ tiền" trong "giấy nhận tiền bán đất, nhà và tài sản" ngày 12/4/2016 số tiền 3,68 tỷ đồng là do "bà Bằng tự điền thêm vào". Trước đó, Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an đã có KLGĐ số 2931/C09B ngày 27/8/2019, xác định: "Giấy nhận tiền bán đất, nhà và tài sản, 1 nhà, xưởng số tiền là 3,68 tỷ đồng, bên bán đã nhận đủ tiền" là "được điền thêm và do cùng một người viết ra". HĐXX GĐT lần 2 "quên" xét các chứng cứ mấu chốt, dẫn đến đánh giá không đúng bản chất vụ án, tuyên cho bị đơn thắng kiện. Trong cảnh trắng tay, lâm vào đường cùng, tôi vẫn tin công lý sẽ được thực thi. Ngoài khiếu nại theo trình tự GĐT, tôi đã có đơn tố giác, kiến nghị chuyển hồ sơ để xem xét các dấu hiệu gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản...".