Kêu cứu vì tài sản bị "rơi rụng", nợ khủng buộc "cưa đôi" (?!)

Thứ Tư, 26/03/2025 09:40

|

(CATP) Bà Ngô Diễm Tuyết (SN 1974, ngụ P3, TP.Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu) gửi đơn kêu cứu vì Hội đồng xét xử (HĐXX) sơ thẩm Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Bạc Liêu không chỉ tuyên cho nguyên đơn hưởng tài sản ly hôn nhiều hơn bà 10%, mà còn được nhận nhà mặt tiền trung tâm thương mại để kinh doanh. Bị dồn vào "thế khó”, bị đơn khẩn thiết đề nghị HĐXX phúc thẩm xem xét "ngọn ngành", phán xử công tâm, khách quan...

Ra tòa sau gần 30 năm chung sống

Hồ sơ thể hiện: Bà Tuyết và ông L.H.N (SN 1967, ngụ P3, TP.Bạc Liêu) kết hôn năm 1995, có 3 con chung, gồm: L.M.Nh (1996), L.T.Ngh (SN 1997) và L.D.Ng (SN 2004). Theo ông N, cháu Ng. bị bệnh "vẹo cột sống" bẩm sinh, chậm phát triển, không thể tự lao động nuôi sống bản thân, phải có người nuôi dưỡng, chăm sóc.

Cũng theo nguyên đơn, vợ chồng ông xảy ra mâu thuẫn, bà Tuyết đã bỏ về nhà cha mẹ ruột, sống ly thân từ khoảng cuối năm 2021. Ông yêu cầu ly hôn, xin nuôi cháu Ng. (hiện đang sống với ông), không yêu cầu bà Tuyết cấp dưỡng nuôi con.

Giữa hai người có các tài sản chung, gồm: Căn nhà xây trên thửa đất 125 (diện tích 47,8m2), tọa lạc số 173 hẻm 19, đường Võ Thị Sáu, P3, TP.Bạc Liêu; căn nhà B4 - B6 Trung tâm thương mại, đường Hòa Bình, P3, TP.Bạc Liêu gắn liền với 2 phần đất thuộc thửa 82 (diện tích 72m2) và thửa 83 (diện tích 72m2). Ông N. yêu cầu được chia và nhận 60% bằng hiện vật; 40% còn lại, ông sẽ trả cho bà Tuyết bằng tiền, do các tài sản này có được từ việc ông trực tiếp kinh doanh, đồng thời ông nhận nuôi cháu Ng. bị bệnh.

Bà Ngô Diễm Tuyết bên hồ sơ vụ án

Đối với 2 căn nhà xây trên thửa đất số 56 (diện tích 139,7m2) và thửa đất 243 (diện tích 72,2m2) tọa lạc số 161, hẻm 19, đường Võ Thị Sáu, P3, TP.Bạc Liêu, ông N. đồng ý chia phần nhà, cũng theo "tỷ lệ 6/4". Còn đất là tài sản của cha mẹ cho riêng ông nên không chia.

Về khoản tiền 3 tỷ đồng bà Tuyết cho vợ chồng bà T.T.T.T (SN 1958, ngụ Cao Văn Lầu, P5, TP.Bạc Liêu) vay, ông N. yêu cầu thu hồi, chia cho ông 50%.

Về món nợ chung 10 tỷ đồng: Đây là khoản vay tại Ngân hàng (NH) TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Bạc Liêu bằng 2 hợp đồng tín dụng (HĐTD) số BL-041 và BL-042 ngày 17/11/2022. Ông N. yêu cầu "chia đôi" cả nợ gốc lẫn lãi.

Đồng ý ly hôn nhưng bà Tuyết có yêu cầu phản tố muốn được trực tiếp nuôi cháu Ng, không yêu cầu ông N. cấp dưỡng nuôi con. Về chia tài sản và chia nợ, bà Tuyết yêu cầu: Tài sản chia mỗi người 1/2, bà được nhận hiện vật, sẽ hoàn giá trị bằng tiền cho ông N. Đối với thửa đất 56 và 243, đây là 2 thửa đất có nguồn gốc của mẹ ruột ông N. tặng cho vợ chồng bà khoảng năm 2006, trong thời kỳ hôn nhân. Sau đó, bà và chồng đi làm giấy chủ quyền để ông N. đứng tên. Vợ chồng bà cùng xây dựng nhà trên đất như hiện trạng.

Về món vay 10 tỷ đồng, bị đơn xác định: HĐTD số BL-042 do bà Tuyết đứng tên vay nên đồng ý trả 50%. Còn HĐTD số BL-041 do ông L.T.Ngh đứng tên vay, bà Tuyết không đồng ý cùng ông N. trả khoản nợ này.

TAND tỉnh Bạc Liêu với HĐXX do Thẩm phán Nguyễn Thị Thu Hương ngồi ghế chủ tọa, cùng 2 Hội thẩm Trịnh Tiểu Nhi và Dương Văn Tân, tuyên Bản án số 40/2024/HNGĐ-ST (Bản án số 40) ngày 30/8/2024:

Chấp nhận cho ông N. và bà Tuyết ly hôn; giao cháu Ng. cho ông N. trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu tự lao động nuôi sống bản thân. Ông N. được chia 2 căn nhà gắn liền với 2 thửa đất 56 và 243; căn nhà gắn với 2 thửa đất 82 và 83. Bà Tuyết được chia căn nhà gắn liền thửa đất 125.

Buộc vợ chồng bà T.T.T.T phải trả cho bà Tuyết 3 tỷ đồng. Số tiền này ông N. được nhận 2,36 tỷ, bà Tuyết nhận 639,84 triệu đồng. Ông N. phải thanh toán cho NH 10,708 tỷ đồng cả vốn và lãi tính đến ngày 30/8/2024.

Căn nhà B4-B6 Trung tâm thương mại P3, TP.Bạc Liêu

HĐXX nhận định: Giá trị căn nhà tại thửa đất 56 là 1,389 tỷ đồng; căn nhà tại thửa đất 243 là 1,405 tỷ đồng. Giá trị nhà và đất thuộc thửa 125 là 992,447 triệu đồng (nhà 451,347 triệu; đất 541,1 triệu). Giá trị nhà và đất thuộc thửa 82 và 83 là 9,927 tỷ đồng (nhà 1,287 tỷ đồng; đất 8,64 tỷ). Các tài sản trên đã thế chấp gần hết để vay tiền và NH yêu cầu giải quyết chia tài sản đảm bảo việc thu hồi nợ.

HĐXX nhận thấy: "Nguồn gốc các tài sản nêu trên có được từ việc ông N. trực tiếp buôn bán kinh doanh cửa hàng phụ tùng xe. Ông N. trực tiếp nuôi cháu Ng. bị bệnh, hạn chế không thể tự lao động nuôi sống bản thân, nên có căn cứ chia cho ông N. 60% tài sản".

Theo HĐXX, căn nhà xây dựng trên 2 phần đất thuộc thửa 82 và thửa 83 hiện là cơ sở do ông N. trực tiếp kinh doanh; bà Tuyết hơn một năm qua đã có nơi kinh doanh khác. Các con của 2 đương sự muốn giao tài sản cho ông N. để có điều kiện tiếp tục kinh doanh. Ông N. tự nguyện thanh toán hết nợ NH. Do đó, cần giao tài sản trên cho ông N. nhận hiện vật, cụ thể gồm: 3 căn nhà gắn liền với đất, có tổng trị giá 12,723 tỷ đồng, ông N. nhận 60%, nên phải hoàn tiền cho bà Tuyết 4,493 tỷ đồng.

Về món nợ 10,708 tỷ đồng của NH: Ông N. và bà Tuyết mỗi người phải trả 50%, tức 5,354 tỷ đồng. Bà Tuyết được chia 4,493 tỷ đồng, còn thiếu 860,166 triệu, được ông N. trả thay. Bà Tuyết phải hoàn lại cho ông N., lấy từ khoản tiền 3 tỷ đồng của vợ chồng bà T.T.T.T. còn nợ, (mỗi người nhận 1,5 tỷ). Sau khi cấn trừ (1,5 tỷ đồng - 860,166 triệu), bà Tuyết chỉ còn 639,84 triệu đồng; ông N. được nhận 2,36 tỷ đồng.

Cần được xem xét "đạt lý, thấu tình"

Kèm đơn kháng cáo và đơn kêu cứu, bà Tuyết cùng người trợ giúp pháp lý là Luật sư Tăng Quốc Thừa (Đoàn Luật sư TPHCM) chỉ ra 3 điểm bất thường của Bản án số 40, rất cần được HĐXX cấp phúc thẩm xem xét thấu đáo.

Thứ nhất, về chia tài sản chung: Căn nhà B4 - B6 Trung tâm thương mại, có diện tích xây dựng 448m2, thực tế là 2 căn, gắn liền với 2 thửa đất số 81 và 82, mỗi thửa diện tích 72m2. Bản án số 40 xác định chỉ có 1 căn nhà, tuyên cho ông N. quản lý, sử dụng và giao cho bà Tuyết 40% giá trị phần tài sản là không có căn cứ, trái với nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng. Bởi lẽ, bà Tuyết đang là chủ cơ sở kinh doanh tại 2 căn nhà này, có giấy phép kinh doanh. Trong 2 căn nhà, có 1 căn do cha mẹ bà Tuyết cho tiền mua và bà là người trực tiếp giao dịch, trả tiền cho đến khi được bàn giao nhà. Căn cứ điểm c, khoản 2, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình, bà Tuyết là người được tiếp tục quản lý, sử dụng. Mặt khác, đây là nơi ở duy nhất của bà Tuyết; trong khi ông N. có nhiều căn nhà để ở.

Thực tế, căn nhà này gồm 2 căn nên chia được bằng hiện vật cho cả ông N. và bà Tuyết theo khoản 3 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình.

Thứ hai, về tình trạng sức khỏe của con chung là cháu Ng, HĐXX sơ thẩm căn cứ lời trình bày của nguyên đơn liên quan đến cháu Ng. để tuyên cho ông N. được nhận 60% giá trị tài sản chung là chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Bởi, đây là công nhận tài sản cho cá nhân ông N, không phải cho cháu Ng. Hơn nữa, hồ sơ vụ án không có chứng cứ chứng minh cháu Ng. bị bệnh "vẹo cột sống, chậm phát triển, không thể tự lao động". Thực tế, cháu Ng. học rất giỏi từ nhỏ, hiện cháu đang sinh sống, học tập, lao động tại TPHCM. Trong trường hợp này, nếu cho rằng cháu Ng. "có vấn đề” thì cần phải trưng cầu giám định về hành vi, sức khỏe và khả năng lao động của Ng. để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho cháu theo khoản 5 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình.

Thứ ba, đối với khoản nợ 5 tỷ đồng của ông L.T.Ngh theo HĐTD số BL-041: Ông L.T.Ngh vay 5 tỷ đồng, bà Tuyết chỉ đứng ra ký bảo lãnh. Ông L.T.Ngh cho rằng, "vay dùm" cha mẹ thì phải chứng minh đã giao tiền vay 2,5 tỷ đồng cho bà Tuyết (ông N. xác định đã nhận tương đương 2,5 tỷ nên ông L.T.Ngh không phải chứng minh). HĐXX sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của ông L.T.Ngh để quy kết đây là "nợ chung" rồi buộc bà Tuyết phải trả 50% nợ là không có cơ sở.

Bà Tuyết bày tỏ bức xúc: "Bản án 40 lộ dấu hiệu không khách quan, không đúng quy định pháp luật, tạo điều kiện cho một bên hưởng lợi lớn, gây thiệt hại cho một bên. Từ chủ cơ sở kinh doanh thuận lợi, ổn định có tài sản, Bản án 40 đã biến tôi thành người không việc làm, rơi vào bế tắc, tuyệt vọng...".

Bình luận (0)

Lên đầu trang