80 năm, một chặng đường lịch sử vĩ đại của dân tộc

Thứ Ba, 19/08/2025 13:55

|

(CATP) Không có quốc gia nào để có nền độc lập đã phải trải qua 4 cuộc chiến tranh chính nghĩa rất ác liệt như Việt Nam. Suốt 45 năm (1945-1990), Việt Nam không có một ngày hòa bình. Đó là một chặng đường lịch sử vĩ đại của dân tộc. Đến thời điểm này, hơn lúc nào hết và không thể chậm trễ hơn, đất nước đã đủ thế và lực, đã đủ ý chí và quyết tâm để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc.

1.Hơn 80 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã diễn ra và bị thực dân Pháp nhấn chìm trong biển máu. Phong trào chống Pháp liên tục tiếp diễn với những nhà trí thức yêu nước như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học… nhưng tất cả đều thất bại. Cho đến khi Đảng Cộng sản Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mới làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại.

Cách mạng Tháng Tám 1945 không chỉ chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, mà còn kết thúc ách đô hộ của phát xít Nhật. Ngay sau đó, chế độ phong kiến cuối cùng ở Việt Nam tồn tại hàng nghìn năm cũng đã kết thúc. Việt Nam hội nhập với thế giới hiện đại ngay lập tức. Chỉ có Cách mạng Tháng Tám mới làm được những điều vĩ đại đó. Tuyên ngôn độc lập mà Hồ Chủ tịch đọc trước đồng bào ngày 02/9/1945 là một thiên anh hùng ca, tuyên bố với thế giới rằng một nước Việt Nam độc lập, tự do ra đời.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng thống Francois Mitterrand

Nhiều năm bôn ba đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần tư tưởng về quyền tự do, độc lập dân tộc, chắt lọc được nhiều giá trị tinh hoa của nhân loại. Từ tư tưởng của các nhà dân chủ tư sản như trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791)…, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc không phải của riêng chủ nghĩa tư bản hay dân tộc nào, mà là giá trị chung của toàn thể nhân loại. Đặc biệt, khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh được tiếp cận với học thuyết về sự giải phóng triệt để con người và các nước thuộc địa.

Người mở đầu Tuyên ngôn độc lập:

"Hỡi đồng bào cả nước,

"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được".

Đó là lý do nước Việt Nam mới muốn hội nhập ngay với thế giới, đặc biệt với đồng minh lúc ấy đang chống chọi với thế lực phát xít muốn dìm nhân loại trong nô lệ. Chính quyền cách mạng của ta cũng đã công bố chính sách đối ngoại rộng mở "muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới", trong đó có Mỹ.

Từ ngày 06 đến 12/12/1946, Bộ Ngoại giao Mỹ cử ông Abbot Low Moffat - Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á tới Hà Nội và muốn gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lúc 17 giờ ngày 07/12/1946, Abbot Low Moffat được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù khi đó Bác đang ốm. Trước đó, ông Moffat đã gặp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp. Trong buổi tiếp, Người nói về tình hữu nghị và sự khâm phục đối với nhân dân Mỹ và những người Mỹ mà Người từng quen biết, cùng làm việc trong rừng sâu Việt Bắc; đồng thời bày tỏ muốn quan hệ ngoại giao toàn diện với Hoa Kỳ.

Bộ đội Việt Nam vẫy tay chào người dân Campuchia đứng hai bên đường trước khi rút quân về nước năm 1989

Cuộc viếng thăm Hà Nội của ông Abbot Low Moffat có vẻ bí mật, không báo trước vào một thời điểm nhạy cảm, sau những vụ đụng độ Việt - Pháp ở Hải Phòng và Lạng Sơn trước ngày Toàn quốc kháng chiến. Điều đáng tiếc là Hoa Kỳ lúc đó theo xu hướng của Pháp, muốn để Pháp trở lại Đông Dương của Chính phủ De Gaulle. Sau đó, nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh cố gắng tiếp xúc với Mỹ nhưng đều thất bại.

2. Chưa có một quốc gia nào có 80 năm độc lập mà phải trải qua 4 cuộc chiến tranh chính nghĩa giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước như nước ta. Trước hết là cuộc chiến tranh 9 năm chống thực dân Pháp.

Charles de Gaulle (22/11/1890 - 09/11/1970), người cùng tuổi với Chủ tịch Hồ Chí Minh, người hùng của nước Pháp, tổ chức kháng chiến chống lại phát xít Đức, giải phóng nước Pháp, nhưng lại là nhân vật có tội lớn với nhân dân Việt Nam. Tại sao Charles de Gaulle, người đã đọc diễn văn nổi tiếng ngày 25/8/1944: "... Paris, Paris bị lăng nhục, Paris tan nát, Paris bị đọa đày, nhưng Paris được giải phóng. Tự giải phóng, được nhân dân giải phóng...", nhưng lại đưa quân xâm lược trở lại Đông Dương sau chiến tranh Thế giới lần thứ 2, sau khi nước Pháp được giải phóng khỏi phát xít Đức?

Đơn giản là sau khi thất trận nhục nhã trong Thế chiến thứ 2, thực dân Pháp vẫn còn thèm khát thuộc địa. Dưới áp lực của bọn thực dân kiểu cũ, Charles de Gaulle bổ nhiệm Đô đốc DArgenlieu làm Cao ủy Đông Dương thuộc Pháp, chỉ định Tướng Leclerc làm Tổng Tư lệnh của các lực lượng viễn chinh và tại Đông Dương để thiết lập lại chủ quyền của Pháp trên bán đảo Đông Dương. Người Mỹ tiếp tay bằng cú viện trợ cho Pháp 160 triệu USD vào năm 1947.

Trong khi đó, ngày 13/12/1946, trả lời phỏng vấn của phóng viên Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: "Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh". Quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946: "Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên..."!

9 năm kháng chiến chống Pháp bắt đầu, để làm nên một chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. De Gaulle đã làm cho DArgenlieu và các tướng 4 sao, gồm: Leclerc, Etienne Valluy, C.Blaijat, M.Corgente, Delattre De Tassigny, Raul Salan, Henri Navarre bị chôn vùi tên tuổi ở Đông Dương, đặc biệt ở Điện Biên Phủ. Tháng 6/1954, tướng 5 sao Ely được cử sang thay tướng Navarre nhưng một tháng sau thì Hiệp định Genève đã được ký nên tướng Ely chỉ làm nhiệm vụ "thu tàn quân về nước".

Bộ đội ta với những trận đánh ác liệt ở thành cổ Quảng Trị năm 1972. Ảnh tư liệu: Đoàn Công Tính

3. Hiệp định Genève năm 1954 là một thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đánh dấu việc kết thúc chiến tranh và khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia; đồng thời buộc Pháp phải rút quân khỏi Đông Dương. Nhưng với sức ép của các cường quốc, Việt Nam buộc phải tạm thời chia đôi, từ vĩ tuyến 17, để chờ tổng tuyển cử 2 năm sau đó.

Ngày chia tay ông Lê Đức Thọ tập kết ra Bắc, ông Lê Duẩn - lúc đó là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (sau đổi thành Trung ương Cục miền Nam) - đã nói: "Anh ra báo cáo với Bác, không phải 2 năm mà có thể phải 20 năm nữa, tôi mới được ra gặp Bác". Ngay thời điểm mà nhiều người ở cả miền Nam và miền Bắc vui mừng về Hiệp định Genève, ông Lê Duẩn đã khóc rất nhiều khi nhìn những gia đình miền Nam trước khi ra Bắc tập kết hẹn 2 năm sau gặp lại.

Và cuộc chiến tranh chống Mỹ 21 năm bắt đầu. Đó là cuộc chiến có số lượng bom được thả nhiều nhất trong lịch sử với 7.662.000 tấn do không quân Mỹ sử dụng, nhiều gấp 3 - 7 lần so với con số 2.150.000 tấn mà tất cả các nước sử dụng trong Thế chiến 2. Đó là chưa kể khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học Mỹ đã rải xuống những cánh rừng nước ta.

Chúng ta phải đối đầu với hơn 543.000 quân Mỹ (1969) và nhiều vạn quân đánh thuê khác. Tổng số quân Mỹ chết trong chiến tranh là 58.220, với 58.148 lính chết trận và 304.000 bị thương. Việt Nam đã làm nên một "Điện Biên Phủ trên không" vào cuối tháng 12/1972 lẫy lừng, đưa đến Hiệp định Paris tháng 01/1973 và tiếp theo là toàn thắng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

30 năm, tính từ 1945, trải qua 2 cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử thế giới, Việt Nam mới thống nhất được đất nước và chưa hề có một ngày hòa bình.

4. Chúng ta lại bước vào một cuộc chiến tranh khác: cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc.

Chúng tôi muốn nhấn mạnh: Việt Nam chưa có một ngày hòa bình. Ngay sau năm 1975, Khmer Đỏ đã đánh đảo Thổ Chu, Phú Quốc và quấy phá dữ dội dọc các tỉnh biên giới. Chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam bắt đầu từ 1975, kéo dài đến 1989. Cuộc chiến tranh này gần 15 năm, hơn cả 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.

Cũng trong thời gian này, Việt Nam phải đối phó với cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, cũng rất dữ dội, từ 1979 đến 1989. Đặc biệt, năm 1984, mặt trận biên giới phía Bắc diễn ra rất ác liệt với việc Trung Quốc huy động 50 vạn quân tấn công vào Việt Nam, chủ yếu ở Vị Xuyên, Hà Giang, đánh sâu vào nước ta khoảng 10km.

Không thể thắng trong cuộc chiến tranh mà chính nghĩa thuộc về chúng ta, ngày 15/5/1989, Trung Quốc bắt đầu rút quân. Cũng từ đó, hai bên đã ngừng bắn trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. Đến tháng 10/1989, Trung Quốc rút toàn bộ quân khỏi lãnh thổ Việt Nam.

Tháng 02/1993, Tổng thống Pháp Francois Mitterrand thăm chính thức Việt Nam, đặc biệt ông đã đến thăm Điện Biên Phủ và phát biểu thừa nhận sai lầm: "Tôi nhớ cuộc đi thăm nước Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946 để tìm người đối thoại, nhưng không tìm được người đối thoại ở Fontainebleau. Lúc ấy chúng ta đã buộc Việt Nam phải chiến đấu. Về phía Pháp, đó là sự sai lầm lớn".

Tương tự, người Mỹ cũng nhận ra sai lầm trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước của Việt Nam. Theo New York Times, trong hồi ký xuất bản năm 1995 mang tên "In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam" (tạm dịch: "Nhìn lại quá khứ: Bi kịch và bài học Việt Nam"), McNamara - cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dưới thời Tổng thống Kennedy và Johnson, viết: "Chúng ta đã sai, sai lầm khủng khiếp. Chúng ta nợ những thế hệ tương lai một lời giải thích". Và ông càng nhận ra sai lầm khi 2 lần gặp gỡ Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Việt - Mỹ bình thường hóa quan hệ.

Vậy đó, chưa có quốc gia nào 80 năm thành lập nước mà trải qua 4 cuộc chiến tranh dữ dội như vậy, để bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc. Suốt 45 năm (1945-1990), Việt Nam không có một ngày hòa bình, kể cả khi bắt đầu công cuộc đổi mới (1986), nguồn lực của quốc gia vẫn dành cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Đất nước đã bước vào kỷ nguyên hòa bình. Việt Nam đang là bạn bè với tuyệt đại đa số các quốc gia trên thế giới, kẻ cả những cựu thù.

Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây, cô lập, đến nay Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, quốc phòng, an ninh vững chắc, hội nhập ngày càng sâu, rộng nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại. Đây là những tiền đề để nước ta vững tin tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Kỷ nguyên mới với các định hướng chiến lược lớn của Đảng, tạo sự phát triển vượt bậc, bứt phá, tăng tốc trên tất cả các lĩnh vực, hiện thực hóa khát vọng xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu; mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.

Đất nước đang bước vào một cuộc Cánh mạng mới, sắp xếp lại giang sơn, như Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ quan điểm: "Hơn lúc nào hết và không thể chậm trễ hơn thời điểm này, đất nước đã đủ thế và lực; đã đủ ý chí và quyết tâm để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc".

Bình luận (0)

Lên đầu trang