Chiều nay (7/11), thảo luận ở hội trường Kỳ họp thứ 10 về dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi), nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị cần bổ sung thêm các hành vị bị nghiêm cấm để ngăn ngừa tình trạng lạm dụng dấu mật, đóng dấu mật không đúng quy định, ngăn ngừa rủi ro lộ thông tin bí mật nhà nước khi sử dụng các công cụ có ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI)…
Đóng dấu mật đã trở thành phản xạ hành chính
Dự thảo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi) trình tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV giữ nguyên số Điều như Luật hiện hành là 28 Điều được bố cục thành 5 chương; trong đó, sửa 21 điều và giữ nguyên 7 điều. Cho ý kiến tại phiên họp, các ý kiến khẳng định, cùng với Bộ luật Dân sự, Luật Tiếp cận thông tin và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, dự thảo Luật Bảo vệ Bí mật nhà nước (sửa đổi) đã tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, nhằm thể chế hóa quy định tại Điều 21 Hiến pháp về bảo vệ bí mật đời tư và bí mật thông tin, Điều 25 Hiến pháp về quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin. Các quy định của dự thảo luật đã đảm bảo cân bằng giữa một bên là bảo vệ bí mật nhà nước, một bên là quyền làm chủ và quyền tiếp cận thông tin của công dân.

Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành Phiên thảo luận
Các đại biểu nhất trí cao với việc Chính phủ chủ động trình Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, nhằm kịp thời thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính, cũng như khắc phục những bất cập, hạn chế đã được nhận diện trong thực tiễn thi hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước hiện hành. Dự thảo luật đã có những điểm mới tiến bộ, đặc biệt trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Quan tâm đến phân loại thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước và cơ chế giải mật, đại biểu Nguyễn Phương Thủy – Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội cho biết, hiện nay không thống kê được số lượng văn bản mật, vì số lượng quá lớn và phân tán, nhưng điều chắc chắn là có không ít tài liệu đang bị mật hóa vượt mức yêu cầu thực tế và chính sự dư thừa bí mật ấy lại đang vô tình gây ra những thiệt hại lãng phí một cách công khai cho quản trị công, cho minh bạch quốc gia và cho quyền tiếp cận thông tin của người dân.
Đại biểu nêu tình trạng, có trường hợp cơ quan tổ chức đóng dấu mật không phải để bảo vệ lợi ích quốc gia mà để an toàn cho người ký, để tránh bị chất vấn, tránh phải giải trình hoặc thậm chí để che giấu thông tin sai phạm. Hiện tượng này đang tạo ra gánh nặng không nhỏ trong quản lý nhà nước. Bởi, người được giao lưu trữ, in ấn, chuyển giao, bảo quản hay tiêu hủy tài liệu phải tuân thủ hàng loạt các quy định nghiêm ngặt, rất tốn thời gian và công sức.

Đại biểu Nguyễn Phương Thủy – Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội
Đại biểu cũng chia sẻ, trong hoạt động giám sát, giải trình, tiếp cận thông tin phục vụ công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội, không ít lần đại biểu Quốc hội gặp tình huống tài liệu mật không thực sự có nội dung mật, nhưng lại không thể tiếp cận, không thể viện dẫn công khai vì chưa được chính thức giải mật. Có nội dung luật yêu cầu Quốc hội thảo luận công khai như các nội dung liên quan đến dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm, nhưng số liệu, tài liệu cung cấp cho các đại biểu Quốc hội lại được đóng dấu mật. Điều này đi ngược với tinh thần minh bạch, công khai và thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ.
Theo đại biểu có 3 nhóm nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng trên: Thứ nhất, quy định của pháp luật còn rộng và chưa đủ rõ. Trong đó, Điều 7 của dự thảo luật quy định phạm vi bí mật nhà nước là giới hạn thông tin quan trọng chưa công khai nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia dân tộc. Đây là tiêu chí cốt lõi rất đúng về mặt nguyên tắc, nhưng khi áp dụng, nhiều cơ quan có xu hướng chọn phương án mật cho chắc, vì không có tiêu chí định lượng, không có hướng dẫn cụ thể để phân biệt đâu là bí mật cần bảo vệ, đâu là thông tin cần công khai, đến mức nào thì được coi là có thể gây nguy hại.
Thứ hai, thiếu chế tài xử lý hành vi lạm dụng. Luật hiện hành chưa có quy định rõ hậu quả pháp lý đối với trường hợp cố ý đóng dấu mật không đúng quy định, hay sử dụng hình thức văn bản mật để che giấu thông tin, né tránh giải trình. Khi đóng dấu mật sai không bị xử lý, thì hành vi lạm dụng sẽ tiếp tục tồn tại.
Thứ ba, vẫn còn khoảng trống pháp lý đối với tài liệu lưu hành nội bộ. Hiện nay, rất nhiều cơ quan đang sử dụng khái niệm hành chính mềm là “các tài liệu nội bộ” nhưng hiện chưa có quy định pháp lý điều chỉnh nhóm tài liệu này. Vì thiếu khung pháp lý nên cán bộ công chức hết sức e ngại, không dám cung cấp thông tin cho các bên có liên quan, không dám đưa dữ liệu lên nền tảng số, không dám ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào phân tích văn bản, sợ rủi ro lộ lọt thông tin. Chính sự thiếu rõ ràng đã vô tình trở thành rào cản với chuyển đổi số và cải cách hành chính.
Cùng quan điểm, đại biểu Phạm Văn Hòa – Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp cũng cho biết, thực tiễn kiểm tra, giám sát cho thấy, có nơi việc đóng dấu mật đã trở thành phản xạ hành chính. Cứ tài liệu liên quan đến công tác cán bộ, tài liệu trong quá trình soạn thảo đều là mật. Các tài liệu nội bộ không đóng dấu mật nhưng vẫn phải quản lý sử dụng như tài liệu mật. Thậm chí, có những nội dung đã được báo chí đưa tin rộng rãi nhưng vẫn tiếp tục được đóng dấu mật.

Đại biểu Phạm Văn Hòa – Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp
Đề nghị cụ thể hóa phạm vi bí mật nhà nước
Đại biểu Dương Khắc Mai – Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng còn cho biết, bất cập không chỉ nằm ở khâu mật hóa, mà còn nằm ở khâu giải mật. Trong thực tiễn, một số công chức, đơn vị đang có sự lúng túng nhất định về xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước, đặc biệt là việc ban hành các văn bản hành chính. Vẫn còn một số nội dung không có bí mật nhà nước theo danh mục, nhưng vẫn được thể hiện bằng dấu chỉ độ mật nên việc áp dụng luật có lúc không đúng với quy định.
Đại biểu thống nhất việc bổ sung nội dung quy định trường hợp sử dụng bí mật nhà nước của cơ quan, tổ chức khác thì phải xác định độ mật tương ứng theo danh mục bí mật nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực được Thủ tướng Chính phủ ban hành của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước hiện hành. Bên cạnh đó, để việc xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước một cách chính xác, đúng quy định, tránh sự tùy tiện trong xác định nội dung bí mật nhà nước, đại biểu đề nghị khi Chính phủ hướng dẫn chi tiết Điều luật này cần quy định chặt chẽ, rõ ràng và dễ áp dụng trong thực tiễn.
Theo Điều 10 của dự thảo luật Về xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước, để xác định tài liệu là bí mật nhà nước, chỉ cần người đứng đầu, hoặc cấp phó có ủy quyền của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm quyết định.

Các ĐBQH tại phiên thảo luận
Theo đại biểu Nguyễn Phương Thủy, đây là thủ tục đơn giản, nhanh và tính trách nhiệm rất rõ, nhưng khi giải mật, đặc biệt là đối với các trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 22, thì phải thành lập Hội đồng giải mật, gồm nhiều thành phần, có họp, có biên bản, có hồ sơ lưu trữ. Điều này tạo ra nghịch lý mật hóa thì dễ mà giải mật thì khó. Dẫn tới tình trạng đóng mật rồi để đó, không ai muốn giải mật tài liệu kể cả khi không còn lý do để giữ bí mật. Hệ quả là nhiều tài liệu vốn nên được công khai để phục vụ minh bạch và kiểm soát quyền lực, lại bị treo trong trạng thái mật kéo dài nhiều năm.
Từ thực tiễn trên, các đại biểu đề nghị cụ thể hóa phạm vi bí mật nhà nước tại dự thảo luật. Trong đó, danh mục bí mật nhà nước phải được rà soát chặt chẽ, chỉ giới hạn trong những trường hợp thực sự cần thiết. Có tiêu chí rõ ràng, tránh suy diễn, tránh mật hóa quá mức; trong luật cần lượng hóa tiêu chí để bảo đảm thống nhất khi áp dụng, hoặc giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.
Đồng thời, cũng cần bổ sung quy định nghiêm cấm hành vi cố ý hoặc lạm dụng việc xác định mật đối với thông tin không thuộc phạm vi danh mục bí mật nhà nước, đóng dấu mật để che giấu thông tin, né tránh trách nhiệm giải trình. Theo đại biểu, quy định này không chỉ mang ý nghĩa răn đe, mà còn tạo cơ sở pháp lý để xử lý những trường hợp lạm dụng quyền lực hành chính.
Đơn giản hóa thủ tục giải mật, chỉ áp dụng cơ chế Hội đồng giải mật đối với nhóm tài liệu có độ tuyệt mật, hoặc tài liệu có yếu tố ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng, làm giảm đáng kể thủ tục hành chính, đồng thời khuyến khích giải mật chủ động và kịp thời. Cùng với đó, ban hành cơ chế pháp lý đối với tài liệu lưu hành nội bộ, giao Chính phủ quy định chi tiết khái niệm, phạm vi lưu hành, chế độ quản lý, xử lý, bảo vệ đối với tài liệu nội bộ. Khi có hành lang pháp lý rõ ràng, các cơ quan nhà nước sẽ yên tâm triển khai chuyển đổi số, áp dụng trí tuệ nhân tạo trong xử lý văn bản, mà không phải lo vướng mắc về pháp lý.
Góp ý vào quy định: “Sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật bị nghiêm cấm theo quy định của Luật này.”, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh - Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng đánh giá, đây là điều khoản rất tiến bộ khi đưa AI vào Luật, tuy nhiên, cần quy định rõ hành vi cụ thể bị cấm, vì AI có thể được dùng để phân tích, trích xuất dữ liệu, tạo ra nguy cơ lộ mật rất lớn mà không cần chiếm đoạt toàn bộ tài liệu.
Vì vậy, đại biểu đề xuất cần làm rõ hơn phạm vi cấm, cụ thể: “Nghiêm cấm sử dụng các công cụ, phần mềm có ứng dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích, tổng hợp, tóm tắt nội dung tài liệu, thông tin có chứa bí mật nhà nước, trừ trường hợp được cơ quan có thẩm quyền cho phép và được triển khai trên hệ thống đã được kiểm soát an ninh.”