Những bức thư tay cảm động của Nguyễn Tất Thành gửi cụ Phan
Có ba bức thư với thủ bút của Nguyễn Tất Thành mà cụ Phan còn giữ được đem về nước năm 1925 và gia đình đã gửi ra Việt Bắc tặng Trung ương trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nay lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh... Có lẽ do yêu cầu bảo mật, các thư đều không được ghi ngày tháng nhưng có thể phán đoán bức thư sau đây đã được viết vào dịp trên. Nguyên văn như sau:
Hy Mã nghi bá đại nhơn. Cách đây không tiếp được tôn tín, không hay Bác hành chỉ thế nào và sự thể bên ta thế nào? Và cháu muốn biết như cháu có thể gặp Bác trước lúc Bác đi hay không, vì cháu rất cần một ít lời tôn hội, xin Bác trả lời liền cho cháu vì chừng trong tuần lễ cháu sẽ xuống tàu "đi chưa biết đâu". Kính chúc Bác, M.Trường và em Dật và các đồng bào yên hảo.
C.Đ: Tất Thành
10. Orchard Place
Southampton England.
Sau thư trên có thể đã có cuộc gặp gỡ giữa cụ Phan và Nguyễn Tất Thành tại Paris trước chuyến đi xa bằng tàu biển sang Mỹ. Nhưng người thanh niên Nguyễn Tất Thành không ở Mỹ lâu, trong quý I năm 1913, Người đã trở về Le Havre, cùng bàn bạc với cụ Phan và chuyển sang ở Anh, Tất Thành đã gửi bức thư sau cho cụ Phan:
Hy Mã nghi bá đại nhơn,
Cháu kính chúc Bác, em Dật và ông Trạng, mấy anh em ta ở Pari đều mạnh giỏi. Nay cháu đã tìm nơi để học tiếng. Mấy bốn tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở Pháp và ngày tháng chỉ lo làm cho khỏi đói chứ chẳng học được bao nhiêu. Cháu ao ước rằng 4, 5 tháng nữa khi gặp Bác thì cháu sẽ nói và hiểu được tiếng Anh nhiều nhiều.
Bên ta có gì mới không? Và nếu Bác dịch xong mấy hồi rồi xin Bác gởi cho cháu.
Chuyến này Bác sẽ đi nghỉ hè ở đâu?
Nay kính
Cuồng Điệt Tất Thành.
Crayton Court Hotel
West Ealingw London.

Hàng vạn người từ trong nhà đổ ra đường, từ các tỉnh đổ về thành phố, đeo băng tang, xếp hàng chỉnh tề, cờ phướn nghiêm trang, đi theo linh cữu
Phan Châu Trinh về nơi an nghỉ
Có một bức thư thứ tư của Nguyễn Tất Thành tìm được bản dịch tiếng Pháp ở thư khố Bộ Ngoại giao Pháp đã dịch lại như sau:
Kính gởi Nghi bá đại nhơn,
Tiếng súng đã rền vang và thây người đã phủ trên đất. Năm cường quốc đã vào vòng chiến và chín nước đang đánh nhau. Cháu chợt nhớ đến thư cách đây mấy tháng đã viết về cơn dông bão này. Định mệnh sẽ dành cho chúng ta nhiều bất ngờ và không thể nói trước ai sẽ thắng...
Các nước trung lập đang còn lưỡng lự và các nước tham chiến chưa rõ được ý họ. Tình hình như vậy ai nhúng mũi vào thì chỉ có thể đứng về phía này hoặc phía kia. Hình như người Nhật có ý nhúng tay vào. Cháu nghĩ trong vòng 3, 4 tháng nữa số phận Châu Á sẽ thay đổi và thay đổi nhiều. Mặc kệ những kẻ đang đánh nhau và bạo động, phần chúng ta hãy cứ bình tâm.
Xin gửi lời thăm Nghi bá và em Dật. Xin trả lời cháu về địa chỉ sau đây:
Nguyễn Tất Thành
Số nhà 8
Stenphen Totterham Rd.
London.
(Hy Mã: biệt hiệu của Phan Châu Trinh; Hy Mã nghi bá đại nhơn thấu: Để Bác Phan Châu Trinh hiểu rõ; Cuồng điệt: người cháu nhiệt huyết).
Cụ Nguyễn Sinh Huy và ân tình phút cuối của cụ Phan
Trong tác phẩm Phan Châu Trinh - Thân thế và sự nghiệp của GS Huỳnh Lý (NXB Đà Nẵng - 1993), ở trang 168 có đoạn tác giả Huỳnh Lý phân tích mối quan hệ thân tình cụ Phan Châu Trinh và cụ Nguyễn Sinh Huy như sau: "Sang tháng 12 năm 1925 thì sức khỏe ông đã suy sụp nhiều, rồi trở bệnh nặng. Theo hồi ức của bà Châu Liên thì suốt thời gian này, thân sinh Hồ Chủ tịch, ông Phó bảng Nguyễn Sinh Huy (còn gọi là ông Bảng Sắc) thường túc trực chuyện trò với ông Phan rất thân thiết. Ông hao hao giống Hồ Chủ tịch trong ảnh nhưng thấp người hơn. Ông làm thấy thuốc, có vẻ rất thanh bạch, ông chỉ tạm lánh khi có đông người hay khi ra phố ăn cơm rồi lại trở lại nói chuyện. Ông Phan tỏ ra rất thương yêu quý mến người bạn trẻ Nguyễn Ái Quốc mà ông đánh giá là "khá nhất" nhưng ông Bảng Sắc thường kín đáo nói lảng đi khi có người khác nghe. Quan hệ giữa hai ông rất thân tình. Ông Bảng Sắc hay bảo là ông Phan vì lo nghĩ quá mà bể não, nát gan. Ông Phan cười : "Anh làm thầy thuốc sao nói như vậy, bể não nát gan thì chết rồi còn gì, mà tôi đã chết đâu". Hoặc có lúc ông Phan bảo ông Phó bảng: "Còn tiền đây, anh có thèm rượu thì ra uống ít chén rồi vô nói chuyện cho vui".
Ngày 24/3/1926, Phan Châu Trinh tạ thế ở Sài Gòn. Nhân dân cả nước ta, nhất là tầng lớp thanh niên hết sức xúc động, thương tiếc. Ông Nguyễn Sinh Sắc đã tỏ lòng thương tiếc và ca ngợi công lao hoạt động cứu nước của Phan Châu Trinh bằng đôi câu đối viết trên một tấm vóc đỏ, đến viếng lễ tang.
Một số tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tang lễ Phan Châu Trinh và những tình cảm đặc biệt
Cụ Phan mất năm 1926, sang năm 2026 là tròn 100 năm lễ tang cụ Phan Châu Trinh. Trong "Hồ Chí Minh - Toàn tập" nhận định về đám tang của cụ Phan Châu Trinh như sau: "Theo nhiều tài liệu sử học kể lại rằng: Đúng vào lúc 6:00 giờ sáng 04/4/1926, có khoảng 60.000 - 100.000 người tụ tập hai bên đường Pellerin, đi nối theo suốt đám tang. Suốt lộ trình đám tang đi qua, từ chợ Bến Thành tới Tân Sơn Nhứt, hai bên đường có nhiều quán nước dựng lên do dân chúng tự động, bưng nước giải khát cho người đưa đám. Họ tặng không nước trà, nước dừa, nước đá, nước chanh. Tại khu vực nghĩa trang có khoảng 200 biểu ngữ, bích chương, viết bằng ba thứ tiếng Hán, Nôm và Quốc ngữ treo la liệt, cũng như suốt lộ trình. Nội dung các biểu ngữ là của các chính khách, nhân sĩ và đoàn thể dân chúng ca ngợi nhà ái quốc vĩ đại Phan Châu Trinh. Nội dung các câu đối, biểu ngữ, lời chia buồn, xuất hiện nhiều từ ngữ mới như "độc lập, tự do", "đoàn kết, dũng cảm", "tranh đấu, giải phóng"... như một thứ tuyên ngôn xuất phát từ đáy lòng của mỗi người dân. Từ Bắc tới Nam, có ít nhất 40 tỉnh và địa phương đã tổ chức lễ tang và gởi ai điếu, cầu nguyện đến ban tổ chức ở Sài Gòn.

Toàn cảnh đám tang cụ Phan Châu Trinh với dòng người trải dài hai bên đại lộ cùng những nhiếp ảnh viên
Tại Phnom Penh, các Việt kiều cũng đã tổ chức lễ truy điệu cụ Phan một cách trọng thể. Ngoài ra, học sinh các trường lớn ở Quy Nhơn, Mỹ Tho, Vinh, Hà Nội... đều có công khai hoặc lén lút tổ chức lễ tang vì nhà cầm quyền ngăn cấm. Hình thức chung của tang lễ khắp nơi là đóng cửa các tiệm buôn, mang băng tang, tập họp diễu hành im lặng qua các đường phố với cờ và biểu ngữ để đến một ngôi đình chùa, rạp hát, hoặc một miếng đất trống, nơi tổ chức hành lễ...
Sau lễ tang, một số học sinh, công chức, giáo viên liên hệ bị bắt, bị giam và đuổi khỏi trường, sở làm. Một số lớn trong đó đã theo hoạt động bí mật chống Pháp từ sau lễ quốc tang này...".
Cũng trong "Hồ Chí Minh - Toàn tập", có đoạn viết: Tháng 4/1925, ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc dưới tên Lý Thụy đã theo dõi với niềm cảm xúc sâu sắc tang lễ Phan Châu Trinh, người bạn vong niên thân thiết trong nhiều năm của mình. Trong bài báo đăng trên tạp chí "Thư tín quốc tế" (số 91 ngày 14/8/1926), Nguyễn Ái Quốc, khi đó đang hoạt động với tư cách là một chiến sĩ Cộng sản quốc tế ở Liên Xô, không tiện bộc lộ rõ tình cảm gắn bó của mình với một người quốc gia chủ nghĩa, nên đã khéo léo phản ánh thực tế về tang lễ và sự kiện liên quan thông qua một bài báo phân tích và đánh giá tình hình chính trị lúc bấy giờ với nội dung như sau: "Nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, một người thuộc phái quốc gia khác vừa qua đời, 30.000 người An Nam ở khắp xứ Nam Kỳ đã làm lễ an táng theo quốc lễ và khắp nước đã làm lễ truy điệu nhà chí sĩ. Chỉ trong vài ba ngày, một cuộc lạc quyên đã thu được 100.000 đồng". Tất cả học sinh, sinh viên đều để tang cụ. Trước phong trào yêu nước của toàn dân, bọn thực dân Pháp sợ hãi, bắt đầu phản công lại. Chúng cấm học sinh để tang và tổ chức lạc quyên. Chúng cấm tổ chức các lễ truy điệu... Để phản đối lại, học sinh đã bãi khóa".
Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về phong trào Cách mạng ở An Nam bằng tiếng Anh, Nguyễn Ái Quốc nhắc lại sự kiện cả nước để tang Phan Châu Trinh như sau: "Năm 1926 có một sự thức tỉnh trong toàn quốc tiếp theo cái chết của một nhà quốc gia chủ nghĩa lão thành Phan Châu Trinh. Khắp trong nước đều tổ chức lễ truy điệu. Chữ "chủ nghĩa quốc gia" từ đó được nói và viết một cách công khai. Những giáo viên Pháp tìm cách ngăn cấm học sinh tham gia các cuộc mít tinh đó. Nam nữ học sinh ở nhiều trường, đặc biệt là ở Sài Gòn, nơi tổ chức đám tang, đã tuyên bố bãi khoá 20.000 người đi theo linh cữu, mang biểu ngữ viết những khẩu hiệu có tính chất quốc gia chủ nghĩa. Trong lịch sử người An Nam chưa hề được chứng kiến một việc to như vậy bao giờ".
Năm 1941 khi mới về lại đất nước sau 30 năm xa cách, trú tại Pắc Bó (Cao Bằng) để chỉ đạo công cuộc giải phóng đất nước, khi viết tài liệu "Cách đánh du kích", Hồ Chí Minh đã đề nghị lấy tên các nhà yêu nước lớn đặt cho các đội dân quân Cách mạng, thế là "Đội du kích quân Phan Châu Trinh ra đời". (Hồ Chí Minh - Toàn Tập, 1983, tập 3, trang 167).
Câu nói mang tính tiên tri trước lúc qua đời của cụ Phan Châu Trinh "Độc lập dân tộc này sở cậy vào Nguyễn Ái Quốc" đã trở thành hiện thực khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 02 tháng 9 năm 1945. Sau thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa, ông đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khẳng định độc lập và chủ quyền của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước.
Sau tổng khởi nghĩa và Tuyên bố độc lập (1945), trong cuộc họp Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 22/3/1946, Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức kỷ niệm 20 năm ngày mất của Phan Châu Trinh vào 24/3/1946. Như vậy trong đáy lòng mình, vị lãnh tụ khai sinh nền độc lập của Việt Nam luôn dành tình cảm kính mến sâu sắc đối với "Hy Mã Nghi bá đại nhơn".
(Còn tiếp...)