(CATP) Sau loạt bài hai kỳ "Vạch mặt những kẻ mượn danh Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu để chống phá đất nước" của tác giả Đỗ Phúc Minh Tuệ, đăng trên Chuyên đề Công an TPHCM, nhiều bạn đọc, các học giả, nhà nghiên cứu đã gửi những ý kiến đồng tình, bày tỏ sự quan tâm đến các nội dung được đăng tải. Các ý kiến này cho thấy sự quan tâm sâu sắc của công chúng đối với các vấn đề được nêu trong bài viết, cũng như phản hồi tích cực đối với các bài báo có tính chất vạch trần các hoạt động chống phá đất nước của các thế lực thù địch. Sau đây, Chuyên đề Công an TPHCM xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Phan Ngọc Dũng về "Chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh - Những lời nhắn gửi cuối cùng trong giờ phút lâm chung".
Tiêu biểu trong phong trào cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
Phan Châu Trinh sinh năm 1872 tại làng Tây Lộc, huyện miền núi Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam cũ) khi thực dân Pháp vừa chiếm trọn Nam kỳ (1867) đang ráo riết xúc tiến việc đánh chiếm toàn bộ Việt Nam. Hai hiệp ước Quý Mùi (25/8/1883) và Giáp Thân (06/6/1884) đánh dấu sự đầu hàng giai cấp phong kiến Việt Nam trước chủ nghĩa thực dân Pháp. Nhưng những người yêu nước Việt Nam đâu chịu hạ vũ khí. Quê hương Quảng Nam của Phan Châu Trinh là một địa phương sớm hưởng ứng phong trào và thân sinh của Phan Châu Trinh là cụ Phan Văn Bình, một võ quan triều đình cũng có tham gia, nhưng 2 năm sau thì cụ mất do bị sát hại. Sau đó, phong trào trong tỉnh lúc này cũng đã sớm lâm vào giai đoạn thoái trào, cuộc khởi nghĩa Nguyễn Duy Hiệu chỉ sau hai năm hoạt động đã tan rã (1885 - 1887). Hoàn cảnh đó làm cho Phan Châu Trinh tuy lúc đó mới 15 tuổi không khỏi suy nghĩ về hiệu quả của con đường vũ trang bạo động. Rồi phong trào Cần Vương trong cả nước sau đó với hai đỉnh cao là Ba Đình - Hùng Lĩnh (Thanh Hóa) và Hương Sơn - Hương Khê (Hà Tĩnh) của Phan Đình Phùng cũng lần lượt thất bại trước sự đàn áp man rợ của thực dân Pháp có tay sai phong kiến tiếp sức. Tình hình đó càng thêm củng cố nhận thức của Phan Châu Trinh về sự bất lực của con đường bạo động Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX.

Khu đền thờ cụ Phan Châu Trinh ở đường Phan Thúc Duyện, phường Tân Sơn Nhất, TPHCM
Tuy nhiên tư tưởng đấu tranh bất bạo động này không hẳn là tư tưởng cố hữu trong tư duy của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh đứng về phía cải cách và là người có ý thức đầy đủ nhất về yêu cầu bức thiết cũng như mục tiêu cuối cùng của con đường cải cách. Chỉ gia nhập quan trường với một chức vụ nhỏ bé Thừa biện bộ Lễ trong một thời kỳ ngắn ngủi, nhưng thực tế quan trường thối nát cực độ, trở thành chỗ dựa vững chắc của thực dân Pháp trong thủ đoạn thống trị và bóc lột nhân dân, đã làm ông thất vọng. Ông đã dứt khoát từ quan về quê cùng các bạn đồng tâm đồng chí (như Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng) đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền vận động cải cách trong giới thân sĩ và nhân dân trong tỉnh. Sau chuyến Nam du khảo sát tình hình, khi trở về ông đã cùng Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng nhất trí với nhau là trước mắt cần phát động một cuộc duy tân rộng khắp trong nhân dân, mong đạt kết quả về lâu dài, không thể nôn nóng bạo động ngay. Chứng tỏ tư tưởng cụ Phan từ thời điểm này đã có những sự chuyển hướng về đấu tranh vũ lực cách mạng nhưng phải chuẩn bị kỹ mới được hành động.
Phan Châu Trinh theo chủ trương duy tân "chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh" và tự lực khai hóa. Với ông, dân trí còn thấp thì có giành được độc lập cũng không phải là điều hạnh phúc cho dân. Mạnh dạn đưa ra chủ thuyết khác hầu hết mọi người lúc bấy giờ, có thể nói Phan Châu Trinh là một nhà cách mạng can đảm, nhà dân quyền tiên phong. Cụ Phan Châu Trinh đã từng nói: "Vọng ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử" ("Không nên cậy vào nước ngoài, cậy vào nước ngoài là ngu; không nên bạo động, bạo động là chết").
Thế nhưng cũng hoàn toàn không thể căn cứ vào câu nói đó để khẳng định Phan Châu Trinh trước sau cự tuyệt bạo động. Đọc thư văn của cụ Phan, thấy rõ ông không tỏ ý gì muốn tuyệt đối cấm bạo động cả, vấn đề đối với ông chỉ là bạo động khi có điều kiện, khi đã đủ sức, không được phép bạo động non. Trong bức thư gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18/02/1922, cụm từ "vỗ tay đánh bộp một cái" thể hiện rõ tư tưởng đó.
Cuộc đời của chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh là một cuộc đời đầy bi kịch và cô đơn. Nỗi bi kịch của cuộc đời ông rất nhiều nhưng bi kịch lớn nhất ông có đến hai dòng tư tưởng là chủ trương bất bạo động nhưng vẫn sẵn sàng bạo động khi có điều kiện và thời cơ chín muồi. Đều này hoàn toàn đúng và hợp lý trong các cuộc khởi nghĩa sau này đã thành công như Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Xô Viết Nghệ Tĩnh và Cách Mạng Tháng Tám... Chính vì đi trước thời đại về suy nghĩ canh tân đất nước với tư tưởng "chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh" nên trở thành "cô đơn". Chính những bi kịch này đã vô hình trung bị các giả sử gia, các nhà nghiên cứu theo "chủ nghĩa xét lại" hoặc thậm chí là những thế lực chống đối cố tình bẻ cong sự thật, tách rời tư tưởng của cụ Phan Châu Trinh ra xa các nhà tư tưởng, các nhà cách mạng khác trong đó có Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Yêu nước là sự tiếp nối giữa các thế hệ cùng chí hướng hoặc có thể chưa cùng chí hướng lúc đó vì những yếu tố khách quan và chủ quan nhưng vẫn hướng tới một mẫu số chung là giành độc lập dân tộc cho nước Việt Nam, đó là trường hợp của Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc.

Nhà lưu niệm cụ Phan Châu Trinh lưu giữ những hiện vật quý về cuộc đời hoạt động của cụ
Dư ngôn và lời gửi gắm sau cùng của người chí sĩ yêu nước
Những sự kiện lịch sử thường là được sự ghi chép lại bởi các sử gia đương thời, người chứng kiến trong cuộc và có tính xác thực nhất vẫn là chính nhân vật lịch sử đó viết lại. Hoàn toàn không được phép suy luận dựa trên phân tích phiến diện, không có cơ sở lịch sử từ những người có tư tưởng cố chấp và cố tình dịch chuyển suy nghĩ người đọc theo một định hướng có mục đích chính trị nào khác. Nói gì thì nói, lòng yêu nước là bội số chung của các nhân vật yêu nước qua các thời kỳ và trong thời kỳ này, những người nổi bật nhất không ai khác là Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc.
Theo Biên niên tiểu sử Hội thảo toàn quốc nhân kỷ niệm 80 năm tang lễ Phan Châu trinh của Nhà xuất bản Giáo dục, số xuất bản 156-2006/CXB/1-252/GD, có ghi chép theo biên soạn của bà Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh) - cháu ngoại của cụ Phan Châu Trinh có đoạn như sau: "Cảm thấy mình không còn sống được bao lâu nữa nên cụ Phan Châu Trinh đã tranh thủ gặp gỡ, trò chuyện với các bạn bè thân thiết như các cụ Trần Đình Phiên, Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc - thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh), Hồ Tá Bang. Ông muốn gặp lại người bạn tâm giao Huỳnh Thúc Kháng từ thuở thiếu thời...".
Theo lời kể của nhân chứng lịch sử ngay thời khắc lâm chung của cụ Phan Châu Trinh là cụ Viên Minh Huỳnh Thúc Kháng kể lại rằng: Do cụ Huỳnh Thúc Kháng vì chờ giấy thông hành và sự theo dõi rất sát sao của trùm mật thám Pháp là Sogny gây khó dễ, nên đến tối ngày 24/3/1926 mới được vào thăm cụ Phan Châu Trinh, gặp nhau được mấy giờ thì vào thời khắc cuối cùng, cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng kịp nghe lời trăn trối sau cùng của cụ Phan một câu rất quan trọng có yếu tố dự đoán: "Độc lập của dân tộc ta sau này sở cậy vào Nguyễn Ái Quốc".
Lời của người sắp qua đời luôn là lời thật tâm nhất và sự truyền đạt lại lời nói này là một nhân sỹ lớn như cụ Viên Minh Huỳnh Thúc Kháng khi kể lại người bạn chí cốt của mình thì càng không thể nào sai!

Ngôi mộ của cụ Phan Châu Trinh trong Khu nhà lưu niệm
Cần tôn trọng lịch sử
Trong tác phẩm Phan Châu Trinh - Thân thế và sự nghiệp của Giáo sư Huỳnh Lý - Nhà xuất bản Đà Nẵng - 1993, ở trang 188 có đoạn tác giả Huỳnh Lý phân tích về tư tưởng lúc cuối đời của cụ Phan Châu Trinh như sau: "Ông Phan không hề đối lập với chủ nghĩa Cộng sản, nói một cách khác, đối với ông thì bất kỳ con đường nào, chủ nghĩa nào cũng tốt, miễn là đem lại lợi ích cho dân tộc, độc lập cho đất nước. Riêng phần ông, ông muốn giữ vị trí là một chí sĩ Việt Nam yêu nước, đứng ngoài Đảng Cộng sản nhưng biết dựa vào lực lượng của Đảng và ông không hề cản trở các thế hệ trẻ của mình theo chủ nghĩa Cộng sản".
Thời gian trước và sau khi Phan Châu Trinh về nước thì tư tưởng ông chuyển biến rõ rệt hơn. Ông kết luận ở đoạn III trang 23 một cách chắc nịch trong bài diễn thuyết rất nổi tiếng vào những tháng ngày cuối cùng rằng: "Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do, độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã, mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này".
Để hiểu được cụ Phan Châu Trinh không phải là một điều dễ dàng của những người đương thời chứ nói gì những thế hệ sau. Các nhà nghiên cứu theo "chủ nghĩa phân lập" hoặc "chủ nghĩa xét lại" luôn đặt sự phán xét chủ quan cá nhân về tư tưởng và con người của nhà Cách mạng lớn này ở một góc nhìn rất hẹp và thiển cận, cố tách cho được tư tưởng yêu nước của Phan Châu Trinh ra khỏi thành quả Cách mạng chung của thời kỳ quật khởi này.
Đã là người viết sử phải tôn trọng lịch sử và nhân chứng lịch sử, giữa một sự kiện có thật rõ ràng và một phán đoán có chủ ý của một nhóm người thì chắc chắn sự kiện có thật đáng tin hơn. Chính vì vậy, không thể vì tư tưởng cá nhân mà bẻ cong ngòi bút. Đó là sự ích kỷ hẹp hòi với tiền nhân và vô tâm với hậu thế!
(Còn tiếp...)
(CATP) Sau ngày 30/4/1975, một bộ phận tướng lĩnh, công chức, sĩ quan, binh lính, đảng phái... của chế độ VNCH vừa sụp đổ bỏ trốn ra nước ngoài và thành lập các tổ chức phản động lưu vong.