Quốc hội vừa thông qua Luật An ninh mạng với 86,86% đại biểu đồng ý. Việc xây dựng và ban hành Luật An ninh mạng xuất phát từ bối cảnh tình hình an ninh mạng trong nước và yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bí mật Nhà nước, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của Hiến pháp...
Tuy nhiên, thời gian qua có nhiều thông tin không chính xác trên mạng internet, mạng xã hội cho rằng Luật An ninh mạng sẽ tạo ra “rào cản kinh doanh”, “tăng chi phí cho doanh nghiệp”, “giấy phép con”...
Một số phần tử chống đối còn đăng tải thông tin lên mạng xã hội và các trang mạng có nội dung xấu, độc, xuyên tạc, cản trở việc thông qua đạo luật này.
Chỉ nghiêm cấm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng
Trung tướng PGS. TS. Hoàng Phước Thuận, Cục trưởng Cục An ninh mạng, Bộ Công an khẳng định: Luật An ninh mạng chỉ nghiêm cấm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng, không có quy định nào cấm Facebook, Google hoặc các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Luật An ninh mạng không cấm hoặc ngăn cản quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ quan điểm của công dân. Đạo luật này cũng không có quy định nào cấm công dân sử dụng các dịch vụ mạng xã hội như Facebook, Google... Luật An ninh mạng cũng không cấm công dân tham gia hoạt động trên không gian mạng hoặc truy cập, sử dụng thông tin trên không gian mạng và cũng không có quy định nào cấm công dân khởi nghiệp, sáng tạo hay trao đổi, triển khai ý tưởng sáng tạo của mình trên không gian mạng.
"Mọi người có thể yên tâm sử dụng Facebook, Youtube... nếu không vi phạm các điều cấm mà pháp luật quy định kể cả việc bày tỏ quan điểm cá nhân trên mạng xã hội. Tuy nhiên nếu bày tỏ quan điểm cá nhân mà xúc phạm nhân phẩm danh dự của người khác, xúc phạm đến tôn giáo, dân tộc... thì đây là hành vi bị cấm.
Luật An ninh mạng quy định các hành vi bị cấm để mọi người biết các hoạt động nào được pháp luật bảo hộ, hoạt động nào bị cấm để người sử dụng mạng không mắc vào vi phạm" - Trung tướng Hoàng Phước Thuận cho biết.
Các hành vi bị nghiêm cấm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Mọi người đều phải chịu trách nhiệm trước các hành động, phát ngôn trên không gian mạng của mình nếu hành động, phát ngôn đó xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
Không kiểm soát thông tin cá nhân của công dân
Trước những đồn đoán, lo ngại vấn đề lạm quyền của lực lượng chức năng sau khi Luật An ninh mạng được thông qua, Trung tướng Thuận cho biết, đây là nội dung mà nhiều người không hiểu, không đọc kỹ luật và các thế lực thù địch lợi dụng sự thiếu hiểu biết này để kích động, gây hoang mang dư luận.
Cơ quan chuyên trách an ninh mạng chỉ giám sát hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng. Bên cạnh đó, luật An ninh mạng cũng có quy định trường hợp nếu người thực thi công vụ về an ninh mạng lạm dụng quyền hạn, xâm phạm quyền của cá nhân, tổ chức thì cũng bị xử lý nghiêm. "Vì thế chắc chắn không có lạm quyền ở đây" - Trung tướng Thuận nhấn mạnh.
Trung tướng Thuận cho biết thêm, Luật An ninh mạng đã quy định rõ, chỉ trong trường hợp phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng mới được quyền yêu cầu cung cấp thông tin người dùng.
Hiện nay, có nhiều thông tin trên mạng internet cho rằng, Luật An ninh mạng yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp toàn bộ thông tin người dùng như thông tin cá nhân, thông tin riêng tư cho cơ quan chức năng là không chính xác.
Không phát sinh “giấy phép con”
Cục trưởng Cục An ninh mạng Hoàng Phước Thuận khẳng định, không có quy định nào trong Luật An ninh mạng yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng phải có giấy phép con mới được phép hoạt động.
"Chắc chắn cơ quan chuyên trách an ninh mạng không cấp giấy phép con nào phát sinh sau khi Luật An ninh mạng có hiệu lực" - Trung tướng Thuận khẳng định và cho biết thêm: Ngoại trừ việc phối hợp với lực lượng chuyên trách xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng và một số trách nhiệm được quy định cụ thể trong Điều 41 liên quan tới cảnh báo, khắc phục, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, các doanh nghiệp không phải chấp hành nghĩa vụ nào khác đối với hoạt động kinh doanh của mình. Không có quy định nào trong Luật An ninh mạng quy định về hoạt động thành lập doanh nghiệp, khởi nghiệp, đầu tư, mua bán, kinh doanh của doanh nghiệp.