(CATP) Ngày 25-2, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an TPHCM cho biết, đã khởi tố 4 bị can: Lê Minh Đức (SN 1996, ngụ Q7), Lê Phước Hưng (SN 1996, ngụ Q1), Đỗ Hương Dung (SN 1991), Lê Hồng Công (SN 1990, đều ngụ Gia Lai), cùng về hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Hai bị can Đức, Công bị cơ quan điều tra bắt tạm giam; còn Hưng, Dung được tại ngoại, cấm đi khỏi nơi cư trú. Liên quan đến vụ án này, trước đó, Cơ quan CSĐT Công an TPHCM đã khởi tố, bắt giam Lê Tiến Danh (SN 1992, ngụ Q.Bình Thạnh, là đối tượng cầm đầu đường dây lừa đảo), Lê Thanh Hiền (SN 1996, ngụ Q.Gò Vấp), Lê Trọng Nghĩa (em ruột Danh, SN 1994, ngụ Q7) về cùng tội danh trên.
Theo hồ sơ vụ án, đầu năm 2018 đến khi bị phát hiện, một ngân hàng thương mại cổ phần và một công ty tài chính trên địa bàn TPHCM liên tục nhận đơn khiếu nại của khách hàng về việc không hề vay tiêu dùng, nhưng bị 2 đơn vị này gửi thông báo yêu cầu thanh toán nợ vay hoặc có vay, nhưng không nhận được tiền mà vẫn bị yêu cầu trả nợ.
Sau khi tiếp xúc, làm việc với khách hàng, hai đơn vị này đã gửi đơn tố giác tội phạm đến Cơ quan CSĐT Công an quận Bình Thạnh, tố giác nhóm đối tượng dùng thủ đoạn giả danh nhân viên ngân hàng và nhân viên công ty tài chính, gọi điện cho khách hàng tư vấn vay vốn nhằm mục đích lấy thông tin cá nhân, hỗ trợ giải ngân rồi chiếm đoạt tài sản khách hàng. Công an quận Bình Thạnh đã chuyển vụ việc đến Cơ quan CSĐT Công an TPHCM thụ lý.
Qua điều tra, lực lượng chức năng xác định, bằng nhiều cách khác nhau, Danh nắm được dữ liệu thông tin các khách hàng đang có hồ sơ vay tại ngân hàng và công ty tài chính trên. Đối với những khách hàng vay thật, Danh tổ chức cho đồng bọn giả danh nhân viên công ty tài chính này, gọi điện cho khách hàng, đọc đầy đủ họ tên, năm sinh, chỗ ở, số CMND hoặc thẻ căn cước công dân, tài khoản và khoản vay của khách hàng, làm cho họ tin tưởng và đồng ý để chúng hỗ trợ giải ngân nhanh.
Lúc này, các đối tượng lừa đảo tìm cách can thiệp vào tài khoản ngân hàng để hệ thống tự động gửi mã xác thực OTP đến số điện thoại của khách hàng. Sau đó, chúng yêu cầu khách hàng cung cấp mã OTP, rồi dùng mã này chuyển tiền vay của khách hàng bằng Internet Banking đến các tài khoản mạo danh và rút ra chiếm đoạt.
Lê Hồng Công, Đỗ Hương Dung, Lê Phước Hưng, Lê Minh Đức
Đối với những trường hợp khách hàng trước đây bị công ty tài chính không duyệt cho vay (4 tháng sau mới được lập hồ sơ vay lại), Danh chuyển và bảo Đức cung cấp nguồn thông tin này cho Hiền, Hưng, Dung, rồi cùng với Đức gọi cho khách hàng bằng các sim khuyến mãi và điện thoại do Danh, Đức cung cấp. Bọn chúng giả danh nhân viên ngân hàng và nhân viên công ty tài chính, gọi điện cho khách hàng, cũng viện cớ hỗ trợ vay vốn, chủ động đọc các thông tin vay trước đây, làm khách hàng tin tưởng bọn chúng là nhân viên của ngân hàng hoặc công ty tài chính thật.
Nếu khách hàng đồng ý vay thì cung cấp lại các thông tin: số CMND, hộ khẩu, ảnh chân dung 3 x 4cm, số tài khoản (nếu thay đổi) để lập hồ sơ vay. Nếu khách hàng chưa có tài khoản tại ngân hàng, chúng đề nghị tự mở tài khoản, nhưng không đăng ký dịch vụ Internet Banking, vì nếu đăng ký sẽ tốn chi phí và giải ngân chậm.
Sau đó, Hiền, Hưng, Dung cung cấp thông tin cá nhân, số tài khoản khách hàng đồng ý vay cho Đức. Đối với tài khoản của khách hàng, Đức tự đăng ký dịch vụ Internet Banking, sử dụng số điện thoại khách hàng đăng ký nhận mã xác thực OTP và mật khẩu do hệ thống ngân hàng gửi đến cho khách hàng. Tiếp theo, Đức lập hồ sơ vay bằng cách giả chữ ký, chữ viết của khách hàng. Mỗi hồ sơ vay, các đối tượng liên kết tối thiểu với 3 số điện thoại khuyến mãi do Danh và Đức mua sẵn: 1 số mặc định cho khách hàng, 2 số mặc định cho người tham chiếu (người thân, bạn bè của khách hàng); chọn hình thức giải ngân qua tài khoản ngân hàng của khách hàng.
Đức chụp ảnh và scan hồ sơ vay, đưa lên hệ thống của ngân hàng và công ty tài chính trên, chờ thẩm định giải ngân. Danh có tài khoản đăng nhập được vào hệ thống để kiểm tra tình trạng hồ sơ. Khi hồ sơ đến giai đoạn thẩm định, chuyên viên thực sự của công ty tài chính gọi đến số điện thoại trên hồ sơ được cho là của khách hàng và người tham chiếu thì Danh bảo Hưng, Đức, Công, Dung, Hiền đóng giả để trả lời.
Khi công ty tài chính giải ngân vào tài khoản khách hàng, Đức can thiệp vào tài khoản này và đưa ra các thông tin gian dối để yêu cầu khách hàng cung cấp mã xác thực OTP. Có được mã xác thực, Đức chuyển tiền đến các tài khoản mạo danh khác và rút ra chiếm đoạt (trường hợp khách hàng không hề vay vốn). Danh và đồng phạm khai nhận, có những trường hợp khách hàng cung cấp mã OTP chậm, vượt quá thời gian quy định, hệ thống tự hủy mã OTP nên chúng phải can thiệp lại tài khoản đến 4, 5 lần mới lấy được mã OTP từ khách hàng.
Bằng thủ đoạn tinh vi trên, Danh cùng các đồng phạm đã chiếm đoạt của 49 cá nhân và của công ty tài chính gần 2,5 tỷ đồng. Khám xét người, chỗ ở của Danh và đồng phạm, cơ quan điều tra thu giữ 185 thẻ ATM, gần 600 sim điện thoại đã sử dụng, nhiều ĐTDĐ và một số vật dụng khác liên quan. Kết quả xác minh tại Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội và kết quả ủy thác điều tra cho cơ quan điều tra cấp quận, huyện thuộc công an 63 tỉnh, thành, cho thấy các giấy CMND dùng để mở tài khoản, làm thẻ ATM đều không tồn tại hoặc được cấp cho một số cá nhân khác.