Tòa xử "3 trong 1" và phép "bù trừ"
Ông Tỏ và vợ là bà Võ Thị Bé (SN 1954), cùng trình bày: Hai vợ chồng làm chủ cơ sở kinh doanh gồm ki-ốt bán hàng, nhà kho... được xây dựng cách đây hơn 20 năm trên một phần của hai thửa đất số 29 và 280b tại ấp 4, xã Long An. Diện tích của 2 thửa đất là 1.416m2 (ngang 17,7m x dài 80m), sau khi trừ lộ giới còn 1.362,9m2; tổng diện tích xây dựng hơn 1.200m2. Về nguồn gốc đất: Có 936m2 của cha mẹ cho sử dụng và 480m2 vợ chồng ông mua lại của Trương Vĩnh (SN 1944, ngụ Q.5, TPHCM) vào ngày 3-3-1995 với giá 20 lượng vàng SJC.
Đang sống yên ổn, bất ngờ ông Tỏ nhận được văn bản của TAND huyện Long Thành thông báo thụ lý vụ kiện tranh chấp đất do ông Lưu Văn Khang (SN 1974, ngụ Tùng Thiện Vương, P11Q8, TPHCM) đứng nguyên đơn. Ngày 3-12-2018, ông Khang khởi kiện yêu cầu ông Tỏ trả lại 1.910,2m2 đất "lấn chiếm". Đến ngày 18-11-2019, nguyên đơn thay đổi, yêu cầu tòa buộc ông Tỏ trả lại phần đất "lấn chiếm" gồm 914,7m2 thuộc thửa 29 và 303,5m2 thuộc thửa 280b.
Nguyên đơn cho rằng, cả hai phần đất nêu trên là của ông Khang đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng (sổ đỏ). Ông Vĩnh chỉ là người được gia đình ông Khang nhờ trông coi và làm thủ tục cấp sổ đỏ. Lợi dụng việc này, ông Vĩnh đã chiếm đoạt toàn bộ giấy tờ rồi bán đất cho ông Tỏ. Ông Vĩnh đã chết năm 2006 không có người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Nguyên đơn đưa ra yêu cầu cụ thể: Đối với phần đất thuộc thửa 29, ông Khang đòi lại hết; cả tài sản trên đất, nguyên đơn sẽ trả tiền cho ông Tỏ để lấy luôn. Đối với đất thửa 280b (ông Tỏ đã được cấp sổ đỏ), nguyên đơn cho bị đơn được giữ lại nhưng phải thanh toán cho ông Khang giá trị quyền sử dụng hơn 6 tỷ đồng (?!).
Vợ chồng ông Tỏ bên hồ sơ vụ tranh chấp
Bản án sơ thẩm số 08/2020/DS-ST ngày 8-5-2020 của TAND huyện Long Thành (bản án số 08) do thẩm phán Mai Sỹ Tuân ngồi ghế chủ tọa, tuyên theo ý của nguyên đơn. Cụ thể: Tòa buộc ông Tỏ trả lại cho ông Khang 914,7m2 đất thuộc thửa 29. Ông Khang được quyền sở hữu, quản lý, sử dụng tài sản của ông Tỏ trên đất gồm nhà ở, quán bán hàng, nhà kho, nhà tạm với tổng diện tích 598,7m2, trị giá 1,058 tỷ đồng. Nguyên đơn phải trả lại cho bị đơn số tiền này.
Ông Tỏ được quyền sở hữu, quản lý, sử dụng 303,5m2 đất thuộc thửa 280b nhưng phải trả cho nguyên đơn giá trị quyền sử dụng là 6,07 tỷ đồng. "Bù trừ" nghĩa vụ thanh toán, ông Tỏ phải trả cho ông Khang 5,011 tỷ đồng. Đồng thời, bị đơn còn phải thanh toán cho nguyên đơn gần 178 triệu đồng "chi phí tố tụng".
Có mặt tại tòa soạn Báo Công an TPHCM chiều 26-10-2020, ông Tỏ trình bày bức xúc kèm đơn kêu cứu và chứng cứ liên quan. Bị đơn uất ức: "Bản án khiến tôi chỉ còn biết kêu trời. Vợ chồng tôi phải tốn biết bao công sức tiền của, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới tạo lập được cơ ngơi như hôm nay. Thế nhưng, chỉ một lời phán của thẩm phán Mai Sỹ Tuân, gia đình tôi như mất trắng, đã vậy còn phải trả ngược cho nguyên đơn là người xa lạ, hơn 5 tỷ đồng! Trong khi yêu cầu khởi kiện của ông Khang hoàn toàn không có cơ sở pháp lý”.
Bị viện "tuýt còi"
Bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Sau khi xem xét, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Long Thành Lê Dương Hạnh đã ký kháng nghị số 91/QĐ/KNPT-DS ngày 22-5-2020, chỉ rõ hàng loạt bất thường cũng như vi phạm nghiêm trọng của bản án số 08. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, ông Khang có 3 yêu cầu khởi kiện: Buộc ông Tỏ trả lại 914,7m2 đất; được sở hữu tài sản của ông Tỏ và buộc bị đơn phải trả lại giá trị 303,5m2 đất hơn 6 tỷ đồng. Như vậy, quan hệ pháp luật được xác định là "Tranh chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ), tranh chấp tài sản gắn liền với đất và yêu cầu bồi thường về giá trị QSDĐ". Bản án chỉ xác định "Tranh chấp QSDĐ" là chưa đầy đủ và chưa chính xác.
Thứ hai, liên quan đến phần đất 303,5m2, UBND huyện Long Thành đã cấp sổ đỏ đến 2 lần cho 2 người là nguyên đơn và mẹ của bị đơn là cụ Lê Thị Tươi (sau đó cho ông Tỏ thừa kế), vi phạm Luật Đất đai năm 1993. Việc cấp sổ đỏ sai sót và nhầm lẫn là một phần nguyên nhân xảy ra tranh chấp dân sự, đồng thời gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. UBND huyện Long Thành là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nhưng tòa không đưa vào tham gia tố tụng là vi phạm Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự. Ngoài ra, có 4 người (con, cháu của bị đơn) đang ở tại phần đất tranh chấp nhưng tòa không đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cũng vi phạm Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ ba, bản án tuyên buộc ông Tỏ, phải trả lại 914,7m2 đất nhưng chưa xem xét kết luận rõ ràng về nguồn gốc đất ông Khang tranh chấp. Ông Khang mua đất, nhờ ông Vĩnh trông coi (do có thời gian sống ở nước ngoài), như vậy ông Khang không có nhu cầu sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp mà chỉ mua đi bán lại. Thực tế từ năm 1994 cho đến 2015, ông Khang không có quản lý và không hề sử dụng thửa đất số 29, dẫn đến việc ông này không biết diện tích và vị trí thửa đất thuộc quyền sử dụng của mình. Đến năm 2015, tức là 19 năm sau ông Khang mới tranh chấp với ông Tỏ về thửa đất số 29.
Trong khi đó, ông Tỏ sử dụng đất thửa số 29 liên tục từ trước năm 1990 cho đến 2015, mới xảy ra tranh chấp. Ông Tỏ đã đầu tư lớn về công sức, tiền của để cải tạo thửa đất số 29 như san lấp mặt bằng từ đất ruộng lúa sang đất thổ cư, xây nhà ở, quán kinh doanh... Tòa án chưa thu thập chứng cứ để xác định giá trị đầu tư công sức, tiền bạc của ông Tỏ để tăng cao giá trị QSDĐ, gây thiệt hại đến quyền lợi của bị đơn.
Thứ tư, liên quan đến phần đất 303,5m2: Gia đình ông Tỏ sử dụng ổn định từ trước năm 1990 cho đến 2015 mới xảy ra tranh chấp đất. Vì vậy, xác định ông Tỏ là người có QSDĐ đối với 303,5m2 là hợp pháp và đúng quy định Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2013. Bản án tuyên ông Tỏ được QSDĐ phần đất này, nhưng buộc phải thanh toán cho ông Khang về giá trị đất 6,07 tỷ đồng là chưa có căn cứ pháp luật và vi phạm về đánh giá chứng cứ, được quy định tại Điều 108 Bộ luật tố tụng dân sự.
Viện trưởng VKSND huyện Long Thành nhận định: Bản án số 08 của TAND huyện Long Thành đã vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, gây thiệt hại lớn về tài sản, về kinh tế đối với bị đơn Lai Văn Tỏ. Vì các lẽ trên, VKSND huyện Long Thành quyết định kháng nghị bản án số 08, đề nghị TAND tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, để chuyển về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp luật.
Phía gia đình ông Tỏ mong TAND tỉnh Đồng Nai sớm đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, tuyên án khách quan trên tinh thần thượng tôn pháp luật.