4. "Đầu Ngô mình Sở"
Ở phần lời giới thiệu, Nhóm HQN cho chúng ta biết cấu trúc của từ điển là một chỉnh thể thống nhất từ đầu đến cuối. Tuy nhiên, trong thực tế, đây là cuốn từ điển không chỉ bị lỗi hệ thống mà còn "đầu Ngô mình Sở":
- Phần đầu của từ điển (từ vần A cho đến hết vần M, chiếm 1/2 nội dung), quy ước đánh số La Mã cho "những từ có quan hệ với nhau về ý nghĩa nhưng thuộc các từ loại khác nhau", hoàn toàn không thấy ở bất cứ mục từ nào. Bắt đầu từ vần N, quy ước này mới được áp dụng.
- Phần đầu từ điển (cũng từ vần A cho đến hết vần M), Nhóm HQN thu thập từ theo kiểu hoàn toàn tự do. Tuy nhiên, bắt đầu từ vần N, các soạn giả lại vừa bám vào từ ngữ có trong các sách Tiếng Việt và Ngữ văn (từ Tiểu học đến Trung học phổ thông) để giải thích kèm ngữ liệu trong sách giáo khoa (SGK), lại vừa thu thập từ và ngữ liệu trên sách báo để giải thích một cách rất "ngẫu hứng" (chúng tôi sẽ nói đến ở phần sau). Điều đáng nói là những cái sai kiểu "Đầu Ngô, mình Sở", "Râu ông nọ cắm cằm bà kia" thì vẫn giống như từ vần M trở về đầu sách. Ví dụ:
Mục "nuôi" (động từ), từ điển giảng 2 nghĩa:
1- "Cho ăn uống để duy trì sự sống".
2- "Chăm sóc giữ gìn để phát triển".
Với nghĩa 1 (Cho ăn uống để duy trì sự sống), từ điển lấy 2 ví dụ minh họa: 1- "Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội" và chú thích là TV4 (từ có trong sách Tiếng Việt 4); và 2- "Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền" trong sách NVNC12 (Ngữ văn nâng cao 12). Tuy nhiên, "nuôi" trong "Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền" thuộc nghĩa 2 (Chăm sóc giữ gìn để phát triển) chứ không thuộc nghĩa 1 (Cho ăn uống để duy trì sự sống).
Học sinh khi xem đến mục từ này hẳn sẽ vô cùng bối rối, bởi không hiểu vì sao "nuôi chí” mà cũng phải "cho ăn uống để duy trì sự sống" giống như... nuôi gà, nuôi vịt vậy!
5. "Rối như canh hẹ”
Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh của Nhóm HQN bám vào SGK để thu thập các mục từ, hay thu thập từ tự do, hay cả hai? Điều này không có sự thống nhất. Mặt khác, cách giải nghĩa từ cũng hoàn toàn ngẫu hứng. Ví dụ, có những mục, nghĩa của từ được giải thích khá phong phú, nhưng có mục, dù từ chứa bao nhiêu nghĩa thì Nhóm HQN cũng chỉ cho 1 nghĩa duy nhất kèm theo 1 ngữ liệu duy nhất. Ví dụ:
- Từ "đóng", Nhóm HQN ghi nhận 8 nghĩa, nhưng đến mục từ "tay", có ít nhất 9 nghĩa, lại chỉ ghi nhận 1 nghĩa duy nhất (dẫn chứng từ sách báo); mục từ "tán" có ít nhất 10 nghĩa, nhưng chỉ giải thích 1 nghĩa (có trong SGK); ở mục từ khác thì lại vừa giải nghĩa có trong SGK vừa giải nghĩa của những từ thu thập trên sách báo khiến độc giả chẳng biết đâu mà lần.
- Mục "gia tài: Tài sản của người chết để lại cho người thừa kế. Chèo ghe vượt sóng đan nia/ Có chồng con một khỏi chia gia tài (ca dao)".
Mục này giải nghĩa đã thiếu chính xác, mà ngữ liệu cũng không đúng so với nghĩa từ vựng. Nguyên do: 1. "Gia tài" là tài sản của gia đình hoặc cá nhân, bất kể do người chết để lại hay người sống đang sở hữu; 2. Ngữ liệu "Có chồng con một khỏi chia gia tài", thì "chia gia tài" ở đây hoàn toàn có thể hiểu là cha mẹ còn tại thế chia gia tài cho con cái, chứ không dứt khoát phải là "người chết để lại...".
Hai phiên bản của Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh (PGS.TS Hà Quang Năng chủ biên) bán trên Tiki
Sai sót này vẫn là lỗi "râu ông nọ cắm cằm bà kia". Cụ thể, khi giảng về từ "gia tài", Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê - Vietlex), đưa ra 2 nghĩa: 1. "Tài sản của người chết để lại cho người thừa kế"; 2. "Của cải riêng của một người, một gia đình". Nhóm HQN chép lấy nghĩa 1, nhưng ví dụ đưa ra lại thuộc nghĩa 2.
Việc chú thích ngữ liệu cũng hết sức rối rắm, thiếu khoa học và không theo thể thức nào. Ví dụ, có chú thích chỉ ghi ngắn gọn tên tờ báo, nhưng nhiều mục lại ghi chi tiết và lặp lại nhiều lần tên tác phẩm, tác giả hoặc tập thể tác giả được trích dẫn, khiến chúng còn dài hơn cả phần giải nghĩa từ.
6. Nhiều sai sót khác
Nhóm tác giả căn cứ vào từ điển của Hoàng Phê để giải thích. Tuy nhiên, việc "chép lại" này không chỉ xảy ra lỗi tam sao thất bản, mà những gì tạm gọi là "của riêng" nhóm biên soạn cũng có rất nhiều sai sót. Ví dụ, hàng loạt từ láy bị qui về nghĩa của tiếng gốc. Ví như: mục "ù ù”, được chú là "láy" và hướng dẫn xem "ù”; mục "ừng ực" chú là "láy" và hướng dẫn xem "ực"; "ươn ướt" chú là "láy" và hướng dẫn xem "ướt"; "ùm ùm" chú là "láy", xem "ùm"; "thoang thoảng", xem "thoảng"...
Cách giải nghĩa theo kiểu chuyển chú này hoàn toàn sai, vì "ù ù” và "ù” là 2 từ khác nhau. Ví như "ù ù” dùng cho tiếng gió thổi hay tiếng máy bay có âm thanh, cường độ lúc to lúc nhỏ, lúc xa lúc gần vọng về, trong khi "ù” lại là tiếng kêu ổn định phát ra từ chiếc ampli hỏng hoặc tiếng ù trong tai. Tương tự, "ừng ực" mô tả tiếng uống/nuốt mạnh chất lỏng từng ngụm liên tiếp, trong khi "ực" chỉ là 1 lần uống/nuốt mạnh và gọn; "ươn ướt" là hơi ướt, trong khi "ướt" lại chỉ tình trạng thấm nước ở mức độ sâu hơn; "ùm ùm" là tiếng nhảy liên tiếp của lũ trẻ xuống tắm, trong khi "ùm" chỉ là 1 lần nhảy...
- Mục "xiềng xích" được mô tả là "xích lớn bằng sắt có khóa để trói chân tay" và ví dụ "... Tôi nói toang mấy câu trên nầy ra là có ý nói sơ những cái xiềng xích trong vòng tình ái của người đời một chút...". Tuy nhiên, "xiềng xích trong vòng tình ái" không phải là dụng cụ "xích lớn bằng sắt có khóa để trói chân tay", mà có nghĩa bóng chỉ sự áp bức, trói buộc, đè nén.
- Mục "xồm" giải nghĩa: "[râu, tóc, lông] nhiều, dài và rậm". Tuy nhiên, râu, tóc, lông "nhiều, dài và rậm" mà không xù lên thì làm sao có thể gọi là "xồm" được?
- Mục "nhe" giải thích là "bành môi ra". Tuy nhiên, đã gọi là "nhe" mà không chìa răng, chìa lợi ra thì làm sao gọi là "nhe"?
Tương tự, một loạt từ khác bị giải nghĩa thiếu chính xác như: xâm phạm, xung phong, tia, thuốc, thiên nhiên, tán, sàng lọc, sang trọng, ruộng... Thậm chí có mục như "ý tứ" hoàn toàn không có phần giải nghĩa từ, mà chỉ có ví dụ "Nó tuy còn nhỏ nhưng làm việc nhà rất có ý”. Theo đây, ví dụ đưa ra cũng không hề chứa từ "ý tứ" như đã nêu (!). Điều này càng cho thấy Nhóm HQN biên soạn từ điển cẩu thả đến mức nào. Điều đáng nói là PGS.TS Hà Quang Năng cũng chính là chủ biên cuốn Từ điển chính tả tiếng Việt (NBX Đại học Quốc gia Hà Nội - 2017) đã bị đình chỉ phát hành năm 2020 do có quá nhiều sai sót.
Có thể nói Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh do PGS.TS Hà Quang Năng chủ biên là cuốn sách có chất lượng quá kém, biên soạn cẩu thả, dẫn đến sai sót mang tính hệ thống, rất có hại cho tiếng Việt. Đặc biệt đối với học sinh - cấp học đang trau dồi, học hỏi, hoàn thiện về kỹ năng sử dụng tiếng Việt - thì sự phương hại càng lớn. Theo đây, để bảo vệ quyền lợi của độc giả và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tránh tác hại xấu đến các em học sinh, Cục Xuất bản cần xem xét, ra quyết định đình chỉ phát hành và thu hồi Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh - một cuốn từ điển không được phép có mặt trên mọi giá sách.
(CATP) Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh do PGS.TS Hà Quang Năng chủ biên, ThS Hà Thị Quế Hương - ThS Dương Thị Dung - ThS Đặng Thúy Hằng - Nhà xuất bản (NXB) Đại học Quốc gia Hà Nội - 2019, trong bài gọi tắt là Nhóm HQN). "Lời giới thiệu" cho biết: "Cuốn Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh được biên soạn nhằm phục vụ rộng rãi nhu cầu giảng dạy, học tập và trau dồi tiếng Việt cho đối tượng chính là học sinh, giáo viên và các bậc phụ huynh. Từ điển được biên soạn theo tinh thần chuẩn hóa và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt". Vậy có đúng cuốn từ điển này "biên soạn theo tinh thần chuẩn hóa và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" hay không?