Phúc thẩm kỳ án khu đất "gả” cho nhiều người:

Bác toàn bộ kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm

Thứ Ba, 07/11/2023 11:20

|

(CATP) Theo Tòa án nhân dân (TAND) Cấp cao tại TPHCM, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đưa ra chứng cứ nào mới để chứng minh cho kháng cáo. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên giữ nguyên. Phán quyết phúc thẩm đã kết thúc hành trình hơn 15 năm khiếu tố, kiện tụng liên quan đến thửa đất 54, tờ bản đồ số 36, P.Thới An, Q12, TPHCM.

Kháng cáo điều gì?

Liên quan đến vụ tranh chấp này, Báo Công an TPHCM (nay là Chuyên đề CATP) đã có nhiều bài phản ánh và chuyển toàn bộ hồ sơ thu thập được sang Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Bộ Công an (CA) cuối năm 2016, sau khi phát hiện có dấu hiệu hình sự. Qua xác minh làm rõ, Cơ quan CSĐT không truy cứu trách nhiệm hình sự do đối tượng liên quan đã chết. Phía người tố cáo là bà Đinh Thị Lụa (ngụ P9, Q.Gò Vấp, TPHCM) đã khởi kiện dân sự.

TAND TPHCM thụ lý vụ án ngày 01/8/2018 với nguyên đơn Đinh Thị Lụa, bị đơn Nguyễn Thị Tuyết Mai (ngụ P.Tân Thới Hiệp, Q12, TPHCM) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Đình Thuận (ngụ P12, TP.Vũng Tàu). Tại phiên tòa ngày 28/4/2022, HĐXX tuyên Bản án dân sự sơ thẩm số 534/2022/DS-ST (Bản án 534):

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

1.1/ Hợp đồng chuyển nhượng (HĐCN) đất số 002917 được Văn phòng Công chứng Tân Bình chứng nhận ngày 17/11/2009, giữa ông Vũ Châu Tuấn và bà Nguyễn Thị Tuyết Mai với ông Trần Đình Thuận bị vô hiệu.

1.2/ Hủy phần nội dung thay đổi do Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất (QSDĐ) Q12 cập nhật biến động ngày 16/6/2015 cho ông Thuận, tại giấy chứng nhận (GCN) QSDĐ số H01875/17 do UBND Q12 cấp ngày 27/11/2008.

1.3/ Công nhận HĐCN đất ngày 03/02/2011 giữa bà Lụa với ông Vũ Châu Tuấn. Bà Lụa được QSDĐ thửa 54 với 1.688,5m2. Nguyên đơn được quyền liên hệ các cơ quan có chức năng để làm thủ tục cấp GCNQSDĐ theo quy định pháp luật.

Cơ quan CSĐT Bộ Công an xác minh thực địa tại thửa đất 54

2/ Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Trần Đình Thuận về việc buộc bà Lụa chấm dứt hành vi cản trở QSDĐ của ông đối với thửa đất 54.

Quá trình tố tụng, HĐXX đã xem xét toàn diện tài liệu chứng cứ, trong đó có văn bản số 204/C44B-P4 ngày 28/6/2018 của Cơ quan CSĐT Bộ CA, kết luận:

Thửa đất 54 của bà Trần Thị Đông bán cho bà Vũ Thị Mừng năm 1991. Do bà Mừng là Việt kiều nên nhờ em ruột là ông Tuấn và vợ (bà Mai) đứng hộ trên giấy tờ mua bán. Năm 2006, bà Mừng bán khu đất cho bà Lụa giá 7,636 tỷ đồng, nhờ em trai Vũ Đức Thiện nhận cọc 4,4 tỷ đồng và đồng ý cho bà Lụa tiếp nhận, quản lý sử dụng thửa đất.

Năm 2008, ông Tuấn - bà Mai làm "đơn cớ mất" bản chính hồ sơ thửa đất rồi lập thủ tục xin cấp GCNQSDĐ. Chỉ là bộ hồ sơ photo nhưng dễ dàng lọt qua các cửa từ phường tới quận! Sau khi được UBND Q12 cấp GCNQSDĐ số H01875/17, ông Tuấn - bà Mai đã bán thửa đất cho nhiều người, trong đó có ông Thuận bằng HĐCN số 002917 với giá 5 tỷ đồng.

Biết rõ đất đang tranh chấp nhưng ngày 16/6/2015, Phó Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Q12 (trước đây là Văn phòng đăng ký QSDĐ Q12) Phạm Văn Tùng vẫn ký duyệt sang tên cho ông Thuận, trái với quy định của Luật Đất đai 2013.

Văn bản ngày 05/8/2009 của UBND Q12 từ chối thụ lý đơn của bà Đinh Thị Lụa
Ông Vũ Châu Tuấn ký biên nhận nhận 7,2 tỷ đồng

Ngày 03/02/2011, ông Tuấn ký HĐCN đất cho bà Lụa, ghi rõ: Giá khu đất 11,6 tỷ đồng (phát sinh theo thời gian thỏa thuận), trừ 4,4 tỷ ông Thiện đã nhận, còn lại 7,2 tỷ. Ông Tuấn viết biên nhận nhận đủ 7,2 tỷ đồng, ký "biên bản giao đất" kèm bản chính GCNQSDĐ số H01875/17, và viết cam đoan: "Việc giao đất, kèm giấy tờ đất là do ông Vũ Châu Tuấn đã được sự đồng ý và chấp thuận của bà Mai (bà Mai ký giấy ủy quyền cho ông Tuấn toàn quyền định đoạt khu đất) cùng những người liên quan khác".

Theo kết luận giám định của Phân Viện khoa học hình sự Bộ CA, chữ ký, chữ viết tên "Vũ Châu Tuấn" tại HĐCN đất và biên nhận ngày 03/02/2011 là do ông Tuấn ký và viết ra. Riêng GCNQSDĐ số H01875/17 ông Tuấn giao cho bà Lụa là giả, nhưng Cơ quan CSĐT Bộ CA không truy cứu do ông Tuấn chết năm 2012.

Kết quả xác minh với UBND và Công an P.Thới An, Cơ quan CSĐT Bộ CA xác định: Bà Lụa quản lý, sử dụng thửa đất từ năm 2007 đến nay; có đăng ký tạm trú tại thửa đất năm 2007 và xây dựng ngôi nhà tiền chế, cột sắt, mái tole...

Lập luận sắc bén của hđxx phúc thẩm

Từ đơn kháng cáo của bà Mai và ông Thuận, TAND Cấp cao tại TPHCM đã mở phiên phúc thẩm ngày 14/9/2023. Bị đơn yêu cầu hủy Bản án 534 vì chưa đánh giá toàn diện chứng cứ, tình tiết vụ án, làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Mai.

Ông Thuận do ông Hoàng Anh Tuấn (ngụ TP.Hà Nội) làm đại diện, yêu cầu sửa Bản án 534, công nhận thửa đất 54 cho ông Thuận, vì HĐCN số 002917 là hoàn toàn phù hợp quy định pháp luật. Bà Lụa không có quyền khởi kiện yêu cầu hủy HĐCN số 002917, vì bà không phải là chủ thể trong hợp đồng (HĐ) này.

Đại diện Viện KSND Cấp cao tại TPHCM nêu quan điểm: Bản án sơ thẩm căn cứ vào các chứng cứ thu thập, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lụa là có cơ sở. Đề nghị HĐXX bác yêu cầu kháng cáo của bà Mai và ông Thuận, giữ y Bản án 534.

HĐXX phúc thẩm nhận định: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì không có quy định nào của pháp luật hạn chế về quyền khởi kiện trong trường hợp này. Tòa sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án là đúng quy định tại Chương XII của BLTTDS. Đại diện ông Thuận đề nghị đình chỉ giải quyết vụ án là không có căn cứ.

Biên bản giao đất cho bà Lụa do ông Vũ Châu Tuấn ký

Về nội dung:

Thứ nhất, theo "biên bản ghi lời khai" ngày 30/9/2009, ngày 28/10/2009 và các bản khai tại Cơ quan CSĐT Bộ CA, bà Mai xác định: Năm 1991, bà Mừng trực tiếp thỏa thuận mua thửa đất, trả tiền (14 cây vàng của bà Mừng) cho bà Đông, để ông Tuấn - bà Mai đứng tên hộ. Toàn bộ giấy tờ, thủ tục ông Tuấn - bà Mai không tham gia; cả chữ viết, chữ ký bên mua, 2 người này cũng không ký (do bà Mừng làm và ký). Lời khai này phù hợp với lời trình bày của các nhân chứng khác. Cụ thể như ông Nguyễn Đại Phong (ngụ P.Tân Thới Hiệp, Q12), khai: Việc làm GCNQSDĐ năm 2008 chỉ có bộ hồ sơ photo (bản gốc do bà Mừng giữ). Toàn bộ hồ sơ thủ tục, kể cả "đơn cớ mất" đều do ông Phong viết đưa cho ông Tuấn - bà Mai ký.

Từ những chứng cứ nêu trên, có cơ sở xác định, thửa đất 54 do bà Mừng mua của bà Đông năm 1991, nhờ ông Tuấn - bà Mai đứng tên trên giấy tờ mua bán.

Thứ hai, về HĐCN số 002917: Tại thời điểm hai bên ký HĐ, thửa đất đang có tranh chấp (giữa bà Lụa với ông Tuấn - bà Mai), nên giao dịch này đã vi phạm khoản 26 Điều 4 và điểm b khoản 1 Điều 106 Luật Đất đai năm 2003.

Về thực tế giao dịch: Ông Thuận và bà Mai có lời khai thống nhất. Cụ thể, ông Thuận khai: "HĐCN số 002917 là "giả cách", do ông Bùi Đức Thái (chồng bà Mừng, ly hôn năm 1998) nhờ; thực tế không có việc mua bán, không có nhận 5 tỷ đồng". Bà Mai khai: "HĐCN đất cho ông Thuận là do ông Bùi Đức Thái nhờ làm, thực tế không có việc mua bán, nhận tiền. Khi ký HĐ, ông Thái có cho vợ chồng Tuấn, Mai 50.000 USD".

Đây là những lời khai của 2 đương sự tại Cơ quan CSĐT, được khai đi khai lại nhiều lần và đều cam kết "tự nguyện, không bị ép buộc", đã đọc lại trước khi ký tên. Những lời khai này phù hợp với nhau ở từng chi tiết của sự việc, đã được Cơ quan CSĐT Bộ CA kết luận. Thực tế sự việc cũng thể hiện đúng như lời khai nêu trên của bà Mai, ông Thuận. Tại thời điểm 2 bên ký HĐ (chỉ diễn ra trên giấy), thửa đất 54 do bà Lụa đang quản lý sử dụng và đã xây dựng công trình trên đất.

Như vậy, giao dịch giữa ông Tuấn - bà Mai và ông Thuận vừa vi phạm điều cấm của luật, vừa giả tạo nhằm trốn tránh trách nhiệm với người thứ 3 là bà Lụa, nên giao dịch này vô hiệu. Hai bên không chứng minh được việc đã giao tiền, bàn giao tài sản và cũng không ai có yêu cầu nên không xét giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu.

Thứ ba, về giao dịch giữa bà Lụa với ông Thiện và ông Tuấn: Theo nguyên đơn trình bày, bà Mừng đã trực tiếp điện thoại, email đàm phán, thỏa thuận bán đất cho bà Lụa và chỉ định ông Thiện trực tiếp giao dịch, nhận 4,4 tỷ đồng thể hiện tại "biên nhận cọc" và HĐCN.

Căn cứ HĐCN đất và biên nhận ngày 03/02/2011 (đã được Cơ quan CSĐT Bộ CA giám định và kết luận), có cơ sở xác định số tiền chuyển nhượng đất đã được bà Lụa thanh toán xong. Khi ký HĐCN và nhận số tiền còn lại từ bà Lụa, ông Tuấn đã mặc nhiên thừa nhận giao dịch trước đó của ông Thiện với bà Lụa. Như vậy, bên bán đã nhận đủ tiền và giao đất; bên mua đã thanh toán xong và đã nhận đất quản lý, sử dụng từ năm 2007 đến nay. Như vậy, 2 bên đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ cho nhau; căn cứ Điều 129 BLDS, HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, công nhận hiệu lực của HĐ, công nhận QSDĐ thuộc về nguyên đơn và nguyên đơn được thực hiện các thủ tục để xác lập QSDĐ đã nhận chuyển nhượng.

Từ nhận định trên, HĐXX phúc thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Mai và ông Thuận, giữ nguyên Bản án 534 của TAND TPHCM.

Bình luận (0)

Lên đầu trang