Kỳ án khu đất "gả” cho nhiều người: Khi CQĐT, tòa và viện đều có chung quan điểm

Thứ Hai, 16/05/2022 11:10  | Huy Văn

|

(CATP) Liên quan đến vụ việc này, Báo Công an TPHCM đã có nhiều bài phản ánh, và chuyển toàn bộ hồ sơ thu thập được sang Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Bộ Công an (CA) sau khi phát hiện có dấu hiệu hình sự vào cuối năm 2016. Qua xác minh làm rõ, Cơ quan CSĐT không truy cứu trách nhiệm hình sự do đối tượng liên quan đã chết. Phía người tố cáo rút đơn, chuyển sang khởi kiện dân sự...

Từ kết luận của cơ quan điều tra…

Tại văn bản số 204/C44B-P4 ngày 28-6-2018, Cơ quan CSĐT Bộ CA kết luận: Khu đất 1.688,5m2 thuộc thửa 54, đường Lê Văn Khương, P.Thới An, Q12, của bà Trần Thị Đông bán cho bà Vũ Thị Mừng năm 1991. Do bà Mừng là Việt kiều nên nhờ em ruột là Vũ Châu Tuấn và bà Nguyễn Thị Tuyết Mai (vợ ông Tuấn) đứng hộ trên giấy tờ mua bán. Năm 2006, bà Mừng bán khu đất cho bà Đinh Thị Lụa (ngụ P9, Q.Gò Vấp, TPHCM) giá 7,636 tỷ đồng, nhờ em ruột Vũ Đức Thiện nhận 2 lần với 4,4 tỷ đồng tiền cọc và đồng ý cho bà Lụa tiếp nhận, quản lý sử dụng thửa đất.

Năm 2008, ông Tuấn - bà Mai làm "đơn cớ mất" bản chính hồ sơ khu đất rồi lập thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng (sổ đỏ). Sau khi được UBND Q12 cấp sổ đỏ H01875/17 ngày 27-11-2008, ông Tuấn - bà Mai đã bán khu đất cho nhiều người dẫn đến tố cáo của bà Lụa. Từ kết quả xác minh, ngày 2-12-2009, Cơ quan CSĐT Bộ CA có công văn gửi UBND Q12 và P.Thới An đề nghị tạm dừng giao dịch thửa đất trên. Trước đó, ông Tuấn - bà Mai đã ký hợp đồng chuyển nhượng (HĐCN) khu đất cho ông Trần Đình Thuận (ngụ TP.Vũng Tàu) giá 7 tỷ đồng nhưng khi công chứng ngày 17-11-2009 tại Văn phòng Công chứng Tân Bình hạ xuống còn 5 tỷ (?!).

Ông Vũ Châu Tuấn ký biên nhận nhận 7,2 tỷ đồng

Ngày 3-2-2011, ông Tuấn ký HĐCN đất cho bà Lụa, ghi rõ: Giá khu đất 11,6 tỷ đồng (phát sinh theo thời gian thỏa thuận), trừ 4,4 tỷ đồng ông Vũ Đức Thiện đã nhận năm 2006, còn lại 7,2 tỷ đồng. Đích thân ông Tuấn viết "biên nhận" nhận đủ 7,2 tỷ đồng, ký "biên bản giao đất" kèm bản chính sổ đỏ số H01875/17, và cam đoan: "Việc giao đất, kèm giấy tờ đất là do ông Vũ Châu Tuấn đã được sự đồng ý và chấp thuận của bà Mai (bà Mai ký giấy ủy quyền cho ông Tuấn toàn quyền định đoạt khu đất) cùng những người liên quan khác. Ông Tuấn tự chịu trách nhiệm về việc này, gia đình đã đồng thuận, không ai tranh chấp. Việc giao và nhận này hoàn toàn tự nguyện, không ép buộc".

Biết rõ Cơ quan CSĐT Bộ CA đã vào cuộc nhưng chưa kết luận về khu đất, ngày 16-6-2015, Phó giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) Q12 Phạm Văn Tùng đã "tình thương mến thương", đặt bút ký duyệt sang tên khu đất cho ông Thuận. Cơ quan CSĐT Bộ CA kết luận: Việc ký duyệt sang tên thửa đất đang có tranh chấp là không đúng với quy định của Luật Đất đai năm 2013.

Liên quan đến HĐCN đất giữa ông Tuấn và bà Lụa, Cơ quan CSĐT Bộ CA xác định: Theo kết luận giám định của Phân Viện khoa học hình sự Bộ CA, chữ ký, chữ viết tên Vũ Châu Tuấn tại HĐCN đất và biên nhận ngày 3-2-2011 là do ông Tuấn ký và viết ra. Riêng sổ đỏ H01875/1 ông Tuấn giao cho bà Lụa là giả, nhưng Cơ quan CSĐT Bộ CA không truy cứu hình sự do ông Tuấn chết năm 2012.

Liên quan đến HĐCN đất, công chứng ngày 17-11-2009: Bà Mai và ông Thuận khai tại cơ quan điều tra, thửa đất 54 do bà Mừng mua, nhờ ông Tuấn - bà Mai đứng tên giấy tờ mua bán; sau đó làm đơn xin cấp sổ đỏ. Thực tế, bà Mai - ông Tuấn không sử dụng đất từ năm 2007. HĐCN đất cho ông Thuận do ông Bùi Đức Thái (chồng bà Mừng, đã ly hôn năm 1998) nhờ làm; thực tế không có việc mua bán, nhận tiền của ông Thuận. Khi ký HĐCN, ông Thái cho ông Tuấn - bà Mai 50.000USD.

Kết quả xác minh với UBND và Công an P. Thới An, Cơ quan CSĐT Bộ CA xác định: Bà Lụa quản lý, sử dụng khu đất từ năm 2007 đến nay; có đăng ký tạm trú tại thửa đất năm 2007 và xây dựng một ngôi nhà tiền chế, cột sắt, mái tôn...

… Đến tòa, viện cùng lên tiếng

Bà Lụa rút đơn tố cáo, chuyển sang khởi kiện dân sự, được TAND TPHCM thụ lý 1-8-2018. Sau nhiều lần tạm dừng, tạm hoãn, vụ án đã được đưa ra xét xử ngày 28-4-2022.

Phía bị đơn Nguyễn Thị Tuyết Mai cho rằng, vợ chồng bà là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất 54. Trước đây bà có khai tại Cơ quan CSĐT Bộ CA, nội dung: Khu đất bà Mừng mua, nhờ vợ chồng bà đứng tên; HĐCN đất cho ông Thuận do ông Bùi Đức Thái nhờ làm, thực tế không có việc mua bán và nhận tiền của ông Thuận. Nội dung khai này không có giá trị, do bà "bị ép buộc, công an gây áp lực" (?!). HĐCN đất với ông Thuận được công chứng ngày 17-11-2009 là hoàn toàn hợp pháp. Toàn bộ nội dung khởi kiện của bà Lụa là không có căn cứ.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trần Đình Thuận, do ông Hoàng Anh Tuấn (ngụ Hà Nội) làm đại diện, cho rằng, HĐCN đất đã hoàn tất, ông Thuận là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất 54. Trước đây, ông Thuận có lời khai tại Cơ quan CSĐT Bộ CA, nội dung: "HĐCN đất ngày 17-11-2009 là "giả cách", thực tế không có việc mua bán và nhận tiền 5 tỷ đồng...". Giống như bà Mai, phía ông Thuận cho rằng lời khai này do "bị ép buộc" (?!). Ông Tuấn đề nghị chuyển hồ sơ vụ án sang Viện KSND TPHCM và Cơ quan điều tra để khởi tố bà Lụa vì có hành vi giả mạo (?!)

Đại diện Viện KSND TPHCM nêu quan điểm: Căn cứ tài liệu, chứng cứ thu thập, có cơ sở xác định thực chất thửa đất 54 là do bà Mừng mua từ bà Đông. Bà Mừng bán đất cho bà Lụa và bà Lụa đã quản lý, sử dụng đất từ năm 2007. HĐCN đất và biên nhận nhận tiền ngày 3-2-2011 đã được giám định kết luận là chữ viết, chữ ký của ông Tuấn. HĐCN đất giữa ông Tuấn - bà Mai cho ông Thuận là giả tạo. Do đó, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Cơ quan CSĐT Bộ CA xác minh thực địa tại khu đất

Nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định: Thứ nhất, theo "biên bản ghi lời khai " ngày 30-9-2009 và 28-10-2009 cùng nhiều bản khai khác tại Cơ quan CSĐT Bộ CA, bà Mai đều xác định: Năm 1991, bà Mừng trực tiếp thỏa thuận mua khu đất, trả tiền cho bà Đông, để ông Tuấn - bà Mai đứng tên hộ. Giấy tờ liên quan đến chuyển nhượng đất ghi tên ông Tuấn - bà Mai do bà Mừng làm và ký. Toàn bộ giấy tờ thủ tục ông Tuấn - bà Mai không tham gia; cả chữ viết, chữ ký bên mua đều không phải do hai người này ký.

Lời khai của bà Mai phù hợp với trình bày của bà Đông và các con bà Đông (xác nhận chỉ bán đất cho bà Mừng, không bán cho ông Tuấn - bà Mai) cùng nhiều lời khai của các nhân chứng khác. Như vậy, có cơ sở xác định thửa đất 54 của bà Mừng mua năm 1991.

Thứ hai, căn cứ "HĐCN đất" và "biên nhận" ngày 3-2-2011, đã được Cơ quan CSĐT Bộ CA giám định và kết luận, có cơ sở xác định số tiền chuyển nhượng đất đã được bà Lụa thanh toán xong và đất đã được giao cho bà Lụa. Khi ký HĐCN và nhận tiếp số tiền còn lại từ bà Lụa, ông Tuấn đã mặc nhiên thừa nhận về giao dịch trước đó của ông Thiện với bà Lụa. Như vậy, bên bán đã nhận đủ tiền và giao đất; bên mua đã thanh toán xong và đã nhận đất quản lý, sử dụng từ năm 2007 đến nay.

Chủ thật sự của phần đất này là bà Mừng, định cư nước ngoài không có ý kiến về tranh chấp; người đứng tên giúp bà Mừng trên giấy tờ đã chết nên việc buộc các đương sự hoàn tất về hình thức của hợp đồng là không khả thi. Căn cứ hồ sơ thì có đủ cơ sở chứng minh hai bên đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ cho nhau.

Thứ ba, liên quan đến HĐCN đất công chứng ngày 17-11-2009: Thời điểm hai bên ký HĐCN, khu đất đang có tranh chấp nên giao dịch này đã vi phạm khoản 26 Điều 4 và điểm b khoản 1 Điều 106 Luật Đất đai năm 2003. Mặt khác, ông Thuận, bà Mai đều có lời khai thống nhất, đây là hợp đồng "giả cách", ông Thuận chỉ đứng tên giùm, thực tế không có việc mua bán và nhận 5 tỷ đồng... Đây là lời khai của các đương sự tại cơ quan công an, được khai đi khai lại nhiều lần và đều cam kết là "tự nguyện, không bị ép buộc", đã đọc lại trước khi ký tên.

Những lời khai của bà Mai, ông Thuận phù hợp với nhau ở từng chi tiết của sự việc và đã được Cơ quan CSĐT Bộ CA kết luận. Lời khai này không chỉ là chứng cứ duy nhất mà nó còn phù hợp với các tình tiết, chứng cứ khác. Thực tế, sự việc cũng thể hiện đúng như những lời khai này. Nay, hai người phủ nhận, cho rằng bị "ép buộc" là không có căn cứ. Như vậy, giao dịch giữa ông Tuấn - bà Mai với ông Thuận chỉ diễn ra trên giấy do hai bên tự ký kết, vừa vi phạm điều cấm của luật, vừa giả tạo nhằm trốn tránh trách nhiệm với người thứ ba là bà Lụa nên đây là giao dịch vô hiệu.

Từ nhận định trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyên: Hủy HĐCN đất số 002917 do Văn phòng công chứng Tân Bình chứng nhận ngày 17-11-2009 giữa ông Tuấn - bà Mai với ông Thuận bị vô hiệu. Hủy phần nội dung thay đổi do Văn phòng ĐKQSDĐ Q12 cập nhật biến động ngày 16-6-2015 cho ông Thuận tại sổ đỏ H01875/17 do UBND Q12 cấp ngày 27-11-2008. Công nhận HĐCN đất ngày 3-2-2011 giữa bà Lụa với ông Tuấn. Bà Lụa được quyền sử dụng phần đất 1.688,5m2 và được quyền liên hệ với các cơ quan có chức năng để làm thủ tục cấp sổ đỏ khu đất theo quy định pháp luật.

Bình luận (0)

Lên đầu trang