SƠ THẨM LỘ OAN SAI, PHÚC THẨM “BẮT BÀI” (!)
Theo bản án sơ thẩm số 01/2018/HS-ST ngày 9-2-2018, Công ty CP Aquafeed Cửu Long (Cty Aquafeed) chuyên về sản xuất thức ăn thủy sản và nuôi cá, được thành lập năm 2007 do hai tiến sĩ Nguyễn Hữu Lộc làm chủ tịch HĐQT và Nguyễn Hồng Nam làm tổng giám đốc (TGĐ). Từ giữa năm 2010 đến cuối năm 2011, hai bị cáo Lộc và Trần Vũ Dũng (thành viên HĐQT Cty Aquafeed) chỉ đạo TGĐ Nam và Đỗ Thái Hòa (phó TGĐ) làm đại diện Aquafeed, ký nhiều hợp đồng (HĐ) mua bán hàng hóa “khống” với Công ty CP Công nghiệp thủy sản (do Bùi Thị Tuyết Mai làm TGĐ) và Công ty Biển Tây.
Các bị tại phiên tòa sơ thẩm
Công ty Aquafeed sử dụng 50 hóa đơn khống làm chứng từ để Agribank - Chi nhánh tỉnh Trà Vinh (Agribank Trà Vinh) giải ngân theo hợp đồng tín dụng số 01AQ/HĐTD (gọi tắt HĐTD số 01) ngày 1-3-2011. Từ đây, Aquafeed chuyển hơn 54,17 tỷ đồng cho hai công ty Công nghiệp thủy sản và Công ty Biển Tây để bị cáo Lộc chiếm đoạt hơn 28,07 tỷ đồng, bị cáo Dũng chiếm đoạt 26,1 tỷ đồng.
Vụ án được khởi tố ngày 17-1-2013, kéo dài hơn 5 năm với 5 lần tòa trả hồ sơ, 3 lần hoãn phiên xử. Tại phiên tòa ngày 9-2-2018, TAND tỉnh Trà Vinh với Hội đồng xét xử (HĐXX) do thẩm phán Nguyễn Văn Thành ngồi ghế chủ tọa, tuyên phạt các bị cáo Lộc 14 năm tù, Hòa 12 năm tù, Nam 10 năm tù, Mai 10 năm tù và Dũng 7 năm tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 BLHS 1999.
Nhóm 3 bị cáo nguyên là cán bộ Agribank Trà Vinh, gồm Nguyễn Văn Trực (phó GĐ phụ trách), Nguyễn Quốc Hoàn và Cao Văn Phong (trưởng và phó phòng tín dụng) bị xử phạt mỗi người 5 năm tù về tội “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”, theo Điều 179 BLHS năm 1999.
Cả 8 bị cáo đồng loạt kháng cáo, trong đó có đến 7 bị cáo kêu oan. TAND cấp cao tại TPHCM mở phiên tòa phúc thẩm ngày 11-12-2018. Tại phiên tòa, đại diện VKSND cấp cao đề nghị hủy án sơ thẩm bởi chưa có đủ căn cứ để buộc các bị cáo về hai tội danh theo Điều 139 và 179 BLHS. Quá trình xử lý vụ án, cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Xem xét toàn diện các tài liệu, chứng cứ cùng kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX phúc thẩm nhận định:
Thứ nhất, xét HĐTD số 01 giữa Công ty Aquafeed với Agribank Trà Vinh là HĐ vay vốn hạn mức 100 tỷ đồng, có thế chấp tài sản trị giá 136,2 tỷ. Như vậy, tài sản thế chấp đảm bảo đủ để thực hiện nghĩa vụ vay. Thứ hai, quá trình thực hiện HĐ, Aquafeed không vi phạm, tài sản thế chấp không thay đổi, khoản vay chưa đến hạn trả nợ nên ngân hàng chưa thiệt hại. Điều này có nghĩa là quan hệ dân sự trong HĐTD số 01 đang tồn tại.
Thứ ba, Aquafeed đã đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh như hệ thống dây chuyền máy móc hiện đại nhập từ Mỹ, châu Âu, có phòng thí nghiệm, vùng nuôi, bến cảng, trung tâm thuốc thú y, đạt các chứng chỉ quốc tế... thể hiện phương án đầu tư lâu dài, bền vững. Số tiền hơn 54,17 tỷ đồng Agribank giải ngân nằm trong hạn mức tín dụng; Aquafeed sử dụng số tiền này để chi trả tiền mua, bán nguyên liệu.
Thứ tư, cấp sơ thẩm nhận định hành vi gian dối liên quan đến HĐ mua bán “khống” (không có hàng hóa) giữa Aquafeed với Công ty Công nghiệp thủy sản và Công ty Biển Tây là không có căn cứ vững chắc. Việc mua bán đều có hàng trên thực tế. Chính cơ quan điều tra đã xác định “HĐ có hàng hóa” thể hiện tại nhiều bút lục.
Thứ năm, Công ty Aquafeed là một pháp nhân ký HĐ vay tiền, nhưng quá trình xử lý vụ án, cấp sơ thẩm lại quy kết trách nhiệm đối với nhiều cá nhân, mặc dù những người này không tham gia ký HĐ vay. Cấp sơ thẩm cũng không chứng minh được bị cáo nào chiếm đoạt và chiếm đoạt bao nhiêu trong số 54,17 tỷ đồng.
HĐXX kết luận: HĐTD số 01 thể hiện một pháp nhân ký kết HĐ vay của một pháp nhân, có thế chấp tài sản bảo đảm. Đây là quan hệ dân sự, không có hành vi gian dối, cũng không có hành vi chiếm đoạt. Agribank Trà Vinh không bị thiệt hại vì tài sản thế chấp đủ để trả nợ trong trường hợp Aquafeed phá sản. Hành vi của các bị cáo Lộc, Hòa, Nam, Mai và Dũng chưa đủ yếu tố cấu thành tội theo Điều 139 BLHS 1999 nên hành vi của các bị cáo Trực, Hoàn, Phong chưa cấu thành tội theo Điều 179 BLHS 1999 như cấp sơ thẩm đã quy kết.
Từ nhận định trên, HĐXX tuyên bản án phúc thẩm số 691: Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho VKSND tỉnh Trà Vinh điều tra xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
BẤT NGỜ KHÁNG NGHỊ HỦY ÁN
Đang chờ vụ án được đưa ra xét xử sơ thẩm lần 2, một số bị cáo bất ngờ nhận được Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 11/2019/KN-HS (QĐ số 11) ngày 9-12-2019 của TAND tối cao, đề nghị hủy bản án số 691 để TAND cấp cao tại TPHCM xét xử phúc thẩm lại vụ án.
Kèm theo đơn kêu oan và trình bày với phóng viên Báo CATPHCM ngày 29-4-2020, ông Nguyễn Hữu Lộc cho biết vẫn chưa nhận được QĐ số 11. Các bị cáo khác cũng đã gửi đơn kêu oan.
Các LS tại phiên tòa phúc thẩm
Nhóm 5 luật sư (LS) bào chữa cho các bị cáo đã có đơn kiến nghị gửi các cơ quan chức năng. Nghiên cứu đơn kèm theo 4 tập tài liệu do các LS, bị cáo cung cấp, ngày 10-4-2020, ĐBQH Lưu Bình Nhưỡng - Phó trưởng Ban Dân nguyện Quốc hội, ký bản kiến nghị dài 6 trang gửi Chánh án TAND tối cao, nêu rõ: diễn biến và ghi chép tại biên bản phiên tòa sơ thẩm cho thấy chính các cơ quan tố tụng đã chứng minh rất rõ cả 5 bị cáo không có hành vi chiếm đoạt tài sản. Nhưng bản án sơ thẩm lại quy buộc cho các bị cáo tội “lừa đảo” là có dấu hiệu xử oan người vô tội. QĐ kháng nghị số 11 gần như đã “sao chép” lại bản án sơ thẩm. Đặc biệt, có những sai sót nghiêm trọng trong việc tổng hợp số liệu, mang tính quy chụp để kết tội các bị cáo trong bản án sơ thẩm cũng được QĐ số 11 “sao chép” để... sai theo (?!).
Phó trưởng Ban Dân nguyện lên tiếng: xét thấy vụ án có nhiều sai phạm nghiêm trọng, đề nghị Chánh án TAND tối cao xem xét chỉ đạo xử lý nghiêm theo pháp luật và thông báo kết quả xử lý cho ĐBQH.
Theo sát vụ án, LS Hà Văn Thượng (nguyên thẩm phán TAND tối cao) nêu ý kiến: Tại phiên tòa sơ thẩm, chính vị đại diện VKS và chủ tọa Nguyễn Văn Thành đều thừa nhận không có ai chiếm đoạt “một xu một cắc nào” nhưng vẫn tuyên 5 bị cáo từ 7 - 14 năm tù. Hàng loạt sai phạm của cấp sơ thẩm đã được làm rõ tại phiên tòa phúc thẩm. Nhận thấy những sai phạm này cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên HĐXX tuyên hủy án sơ thẩm, trả hồ sơ cho VKSND tỉnh Trà Vinh điều tra, xét xử lại theo trình tự sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật.
Nay TAND tối cao ra QĐ kháng nghị, nếu Hội đồng thẩm phán TAND tối cao chấp nhận, thì vụ án sẽ được xử lại phúc thẩm. Với những “lỗ hổng” của bản án sơ thẩm, chắc chắn TAND cấp cao tại TPHCM sẽ tiếp tục hủy án. Cuối cùng vụ án cũng quay trở về cấp sơ thẩm, nhưng thời gian kéo dài rất lâu khiến cho nỗi oan ức của các bị cáo thêm chồng chất.
Liên quan đến thời gian tống đạt QĐ số 01, LS Trần Văn Tạo (Đoàn LS TPHCM) bày tỏ: “QĐ kháng nghị số 11 ký ngày 9-11-2019 nhưng đến ngày 3-3-2020 mới được gửi đến Bưu điện Hà Nội để tống đạt cho các bị cáo. Việc này có dấu hiệu ký lùi ngày nên chúng tôi đề nghị Hội đồng thẩm phán TAND tối cao kiểm tra toàn bộ trình tự thủ tục ra QĐ số 11”.
Cùng quan điểm với hai LS đồng nghiệp, LS Trần Hải Đức (Đoàn LS TPHCM) lên tiếng: TAND cấp cao tại TPHCM khẳng định không có căn cứ buộc tội nên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại, tránh oan sai. Nay TAND tối cao ban hành QĐ kháng nghị dựa trên những lập luận của bản án sơ thẩm (?). Các LS và nhóm bị cáo tin tưởng, với kiến nghị của Phó trưởng Ban Dân nguyện Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng, Chánh án TAND tối cao sẽ xem xét, xử lý công tâm khách quan...