Bác Hồ - Người Thầy vĩ đại của Báo chí Cách mạng Việt Nam

Thứ Bảy, 21/06/2025 07:35

|

(CATP) Nguyễn Ái Quốc đã nói với các đồng chí trong Hội Liên hiệp thuộc địa và Ban Biên tập báo Người cùng khổ rằng Nguyễn sẽ “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”.

Cách đây 102 năm, tại thành phố Mátxcơ-va (Liên Xô) trong khi trả lời phóng vấn của nhà báo Men-đen-xtam, Nguyễn Ái Quốc(1) đã nói: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm hiểu xem những gì ẩn sau những chữ ấy. Những trường học của người bản xứ, bọn Pháp dạy người ta như dạy con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải là sách của những nhà văn mới, mà cả Rút-xô và Mông-tex-kiơ cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”(2). 

Chính vì vậy, ngay trong những ngày đầu khi bôn ba vượt vạn dặm trùng dương đi tìm đường cứu nước, người thủy thủ trẻ giàu nhiệt huyết Nguyễn Tất Thành(3) đã nung nấu một ước nguyện thiết tha. Đó là phải học giỏi tiếng nước ngoài. Có tinh thông ngoại ngữ mới tự tạo cho mình một nền tảng kiến thức để học rộng hiểu sâu, thông kim bác cổ, để vươn xa tầm nhìn thời cuộc và mở rộng nhãn quan chính trị. Trong 5 năm sống ở Mỹ và tại xứ sở sương mù của nước Anh, Nguyễn Tất Thành đã bền chí học tiếng Anh. Trên đất Mỹ, Nguyễn Tất Thành có thể đọc được sách báo về những vấn đề lịch sử và xã hội. Còn ở Anh, kết quả của sự gia công tự học và được sự hướng dẫn của một giáo sư người Ý, Nguyễn Tất Thành đã đọc được những kiệt tác văn học của Dickens, Shakespeare.

Bác Hồ - Người Thầy vĩ đại của Báo chí Cách mạng Việt Nam.

Kết quả quan trọng nhất của việc sử dụng điêu luyện tiếng Pháp trong 6 năm sống và hoạt động tại thành phố Paris, đã đưa Nguyễn Tất Thành đến một lĩnh vực hoạt động mới mẻ, rất đắc dụng - đó là nghề làm báo. Đúng như Giáo sư triết học - sử học Trần Văn Giàu đã lập luận thật chí lý trong công trình nghiên cứu khoa học “Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh”. Ông viết: “Năm 1917, Nguyễn Tất Thành đã rời Anh sang Pháp, ở Pháp, Người làm nhiều nghề, như rửa ảnh, vẽ đồ sứ, và một số nghề lao động chân tay khác, lần này, Nguyễn thêm nghề viết báo. Chẳng những viết bài đăng báo, mà còn viết truyện ngắn, viết kịch bản được dịch ở một vài câu lạc bộ viết sách nữa”(4). Giáo sư Trần Văn Giàu nhấn mạnh: “Nếu chỉ có một người đóng vai chục năm trong hàng ngũ công nhân lao động, trải qua các nghề thủy thủ, đốt lò, rửa ảnh, rất yêu nước, rất kiên quyết đấu tranh thì ta chỉ có một cán bộ tốt mà không được một Nguyễn Ái Quốc, một Hồ Chí Minh đâu”(5).

Vì sống và hoạt động cách mạng nhiều năm ở Mỹ, ở Tây Âu, ở nước Nga, nên hiện tượng độc đáo trong nghề viết báo của Bác Hồ thời trẻ là sự “viết ngược” - như lời Bác nói. Nghĩa là, trong giai đoạn đầu cầm bút tại thành phố Paris và Mát-xcơ-va, Người viết báo bằng ngoại ngữ, chủ yếu là tiếng Pháp.

Những năm sau, khi tới thành phố cách mạng Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc, đến vùng đông - bắc Thái Lan và vượt biên giới Việt - Trung để về nước bí mật hoạt động cách mạng tại vùng rừng núi tỉnh Cao Bằng, Bác Hồ bước vào thời kỳ viết báo bằng tiếng Việt. Tuy nhiên trong những năm hoạt động ở Quảng Châu, đi đôi với việc viết báo bằng tiếng Việt, Bác vẫn tiếp tục viết báo bằng tiếng Pháp để gửi sang Mát-xcơ-va cho tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản, gửi sang Paris cho báo L’Humanité của Đảng Cộng sản Pháp. Người còn viết báo bằng chữ Hán để đăng trên báo chí cách mạng Quảng Châu.

Chúng ta xiết bao tự hào được biết, Bác Hồ là một nhà báo cách mạng quốc tế, chẳng những điêu luyện về tài năng, mà còn rất sung mãn về bút lực. Tính từ khi những bài báo đầu tiên của Bác viết được đăng trên báo của Đảng Xã hội Pháp (Le Populaire) và Đảng Cộng sản Pháp (L’Humanité) vào tháng 8, 9/1919 đến lúc báo Nhân dân đăng bài báo cuối cùng của Người trong số báo ấn hành ngày 03/02/1969, Bác đã viết tới 2.000 bài báo. Theo một số đồng chí trước đây may mắn được tiếp cận với Bác cho biết, có tháng Bác Hồ đã viết tới 32 bài báo. Căn cứ theo nguồn tư liệu được lưu trữ trên đất Pháp, chúng ta được biết trong những năm đầu thập kỷ 20 của thế kỷ trước, có năm Nguyễn Ái Quốc đã được đăng 20 bài báo trên tờ báo L’Humanité - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp. Người cũng đã viết trên dưới 100 bài về vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo này.

Điều đặc biệt là, trong vòng 19 năm (1922 - 1941), Bác đã sáng lập ra 4 tờ báo cách mạng được ấn hành công khai và bí mật tại bốn nước: Báo Le Paria được ấn hành tại thành phố Paris của nước Pháp, báo Thanh niên được sáng lập tại thành phố cách mạng Quảng Châu - Trung Quốc, báo Thân ái ra mắt bạn đọc tại vùng đông - bắc Thái Lan và báo Việt Nam độc lập được sáng lập trong rừng đại ngàn ở tỉnh Cao Bằng. Chúng ta đã thấy, sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, đặt chân lên nhiều châu lục, tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân đế quốc ở các nước tư bản và nhiều nước thuộc địa của chúng, trong hàng trăm bài báo được viết từ Paris đến Mát-xcơ-va, được đăng trên các cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp, của Quốc tế Cộng sản, của Đảng Cộng sản Nga, của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp, của Hội Liên hiệp thuộc địa..., Bác Hồ đã tập trung vào việc giải quyết những nhiệm vụ bức xúc sau đây:

- Vạch trần bản chất xấu xa, tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân đế quốc ở nước ta và trên thế giới, chúng là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân bị áp bức. Dựa vào những tài liệu và sự việc cụ thể, Bác Hồ đã cực lực tố cáo bản chất ăn cướp và giết người của chủ nghĩa thực dân đế quốc, vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng. - Ra sức quảng bá chủ nghĩa Mác Lê-nin, tuyên truyền chủ nghĩa xã hội khoa học vào nước ta và các nước thuộc địa, hướng các dân tộc bị áp bức về nước Nga Xô viết, về Lê-nin, về cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại. - Giới thiệu cho Nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức thấy rõ con đường đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thoát khỏi ách áp bức thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc là “con đường cách mạng vô sản”. “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”. “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.

- Chỉ rõ sức mạnh không thể chiến thắng trong mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa cách mạng trong các nước thuộc địa và cách mạng ở chính quốc. Vì thực dân đế quốc là “một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Do đó, muốn chiến thắng thực dân đế quốc phải toàn tâm thực hiện những lời hiệu triệu bất diệt của Các Mác - Ăng-ghen - Lê-nin: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Giá trị tinh hoa về tư tưởng của những bài báo Nguyễn Ái Quốc viết trong giai đoạn này, là sự phản ánh phát kiến vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc trong việc tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.

Mùa hè năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đã nói với các đồng chí trong Hội Liên hiệp thuộc địa và Ban Biên tập báo Người cùng khổ rằng Nguyễn sẽ “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”. Được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản và Liên Xô, cuối mùa thu năm 1924 Nguyễn Ái Quốc đã đến Quảng Châu, sau đó tới Thái Lan, rồi về nước để bí mật hoạt động cách mạng.

Một trong những sự kiện hoạt động nổi bật của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu là sáng lập ra Tuần báo Thanh niên vào mùa hè năm 1925. Đến tháng 4/1927, báo ra được 88 số. Cống hiến quan trọng của báo Thanh niên là đã thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Góp phần quan trọng vào việc nâng cao lòng yêu nước và ý chí căm thù đế quốc Pháp và bè lũ tay sai; bồi dưỡng truyền thống đấu tranh cách mạng bất khuất kiên cường của dân tộc; giới thiệu Cách mạng tháng Mười Nga và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô; đấu tranh chống các khuynh hướng quốc gia hẹp hòi và dân chủ tư sản trong phong trào giải phóng dân tộc; vạch ra con đường cách mạng đúng đắn; đồng thời nêu lên những quan điểm lý luận đầu tiên về việc xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc đã đến Thái Lan hoạt động trong Việt kiều tại nhiều nơi ở vùng đông - bắc. Trong các hoạt động quan trọng của Nguyễn Ái Quốc trên đất Thái, có việc sáng lập tờ báo Thân ái. Nhiệm vụ chủ yếu của tờ báo này là kêu gọi đồng bào đoàn kết, giúp nhau trong cách làm ăn để ổn định đời sống, tiến hành việc xóa nạn mù chữ, sẵn sàng ủng hộ cách mạng, tự nguyện tham gia công tác của đoàn thể giao phó, giữ gìn bí mật của tổ chức và bảo vệ cán bộ. Năm 1939, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị điều kiện để về hẳn trong nước hoạt động. Đầu năm 1940, Nguyễn Ái Quốc tới Côn Minh (Trung Quốc) bắt liên lạc với Đảng. Ngày 08/02/1941, Nguyễn Ái Quốc đã bí mật về ở vùng Pác Bó (Hà Quảng Cao Bằng). Trong thời gian 1941 - 1942, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra báo Việt Nam độc lập - cơ quan ngôn luận của Việt Minh ở tỉnh Cao Bằng. Số đầu tiên ra ngày 01/8/1941.

Tờ báo đã hoàn thành tốt đẹp những nhiệm vụ trọng yếu sau đây: Tố cáo những tội ác dã man của phát xít Nhật và thực dân Pháp đàn áp bóc lột Nhân dân ta; phản ánh đậm nét phong trào hoạt động cách mạng của vùng căn cứ địa Việt Minh; giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết chiến đấu, chịu đựng gian khổ hy sinh của đảng viên và quần chúng; giới thiệu kinh nghiệm cách mạng ở các nước và bước đầu nêu lên một số vấn đề về nhiệm vụ quân sự để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền; kêu gọi toàn dân đoàn kết, hiệu triệu đồng bào vào Hội Việt Minh; hướng dẫn quần chúng giữ gìn bí mật, tham gia cứu nước, luyện tập quân sự, bảo vệ cơ quan, phòng địch càn phá.

Nhờ tiếng sấm vang dội của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại, nhờ công lao truyền bá của Bác Hồ trong sự nghiệp hoạt động báo chí cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã đến nước ta, Nhân dân ta đã vùng lên đứng chung trong chiến tuyến với giai cấp vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

66 năm trước đây, tại Đại hội lần thứ hai Hội Nhà báo Việt Nam, Bác Hồ đã nói rõ tôn chỉ của Người đối với sự nghiệp hoạt động báo chí cách mạng. Bác nói: “Bác là người có duyên nợ với báo chí... Tất cả các bài của Bác viết chỉ có một “đề tài” là chống thực dân, đế quốc, chống phong kiến, địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

Chúng ta đã thấy, từ sau cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 đến lúc cuối đời, trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh để giải phóng miền Nam, thực hiện việc thống nhất nước nhà - đây là thời kỳ tỏa sáng rực rỡ của Bác Hồ trong sự nghiệp hoạt động báo chí cách mạng.

Theo số liệu của các cơ quan chức năng, trải qua hơn hai thập niên (1945 1969), Bác đã để lại cho đất nước và Nhân dân một di sản báo chí cách mạng đồ sộ. Trong số đó, Người đã viết cho báo Cứu quốc khoảng 400 bài (1945 - 1955), viết cho báo Nhân dân 1.200 bài (1951 - 1969).

Trong tác phẩm “Hồ Chí Minh - tinh hoa và khí phách của dân tộc”, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Hồ Chí Minh là nhà chiến lược, đồng thời là nhà văn hóa, nhà báo, nhà thơ lớn. Người đã mở đầu và góp phần quan trọng hiện đại hóa ngôn ngữ và câu văn Việt Nam. Suốt đời, Hồ Chí Minh là người cầm bút chiến đấu trên mặt trận văn hóa, báo chí, với một văn phong đa dạng, nhiều sắc thái mà nổi bật là tính quần chúng, cách suy nghĩ và diễn đạt dân gian, dễ hiểu, đi sâu vang vọng trong lòng người, gợi mở những tư tưởng lớn lao, thúc đẩy những việc làm tốt đẹp, bằng những lời lẽ bình dị giàu hình tượng, nói được điều lớn bằng chữ nhỏ”.

Một trong những điểm đặc sắc của Bác Hồ trong ngót một phần tư thế kỷ viết báo (1945 - 1969), là Người đã sử dụng rất nhiều bút danh và bí danh trong hàng nghìn bài báo, viết với ý chí căm thù giặc sâu sắc, với tấm lòng yêu nước thương dân tha thiết, viết theo phương châm dân tộc, khoa học và đại chúng. Chính vì lẽ ấy, những bài báo của Người có tác dụng mạnh mẽ trong việc giáo dục và thu phục nhân tâm quần chúng, có sức cảm hóa lòng người sâu sắc, có tác dụng cổ vũ và hiệu triệu quân dân ta xông ra tiền tuyến để giết giặc lập công.

Căn cứ theo những lời tự thuật của Bác Hồ tại Đại hội lần thứ hai Hội Nhà báo Việt Nam, chúng ta có thể lĩnh hội được những vấn đề trọng yếu mà Người đã viết báo bên dòng lịch sử cách mạng Việt Nam từ 1945 - 1969.

Bác nói, báo chí của Người viết chỉ có một “đề tài” là “chống thực dân, đế quốc”. “Đề tài” đó, chính là điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”; “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta cần phải tiếp tục quét sạch nó đi”; “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Chúng ta đều biết, báo chí của Bác Hồ viết trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đều hướng vào mục tiêu duy nhất: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Báo chí của Bác viết trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ tối thượng: “Tất cả để chiến thắng quân xâm lược Mỹ”

Bác viết, trọng trách của báo chí là:

“Làm cho mỗi quốc dân là một chiến sĩ

Mỗi làng xóm là một pháo đài

Làm cho quân đội giặc đi đến đâu cũng bị khuấy, bị phá, bị diệt

Bộ đội ta đi đến đâu cũng được giúp đỡ đầy đủ về mặt vật chất và tinh thần”.

Ngoài việc “chống thực dân, đế quốc”, báo chí còn có nhiệm vụ “chống phong kiến”. Chúng ta đã thấy, báo chí của Bác Hồ viết qua các giai đoạn cách mạng, đều gắn chặt nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Người chỉ rõ, cách mạng giải phóng dân tộc nhất thiết phải bao hàm nội dung dân chủ. Cho nên phải nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ với hai nhiệm vụ chiến lược “độc lập dân tộc” và “người cày có ruộng”.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, trong khi hướng mũi nhọn vào đế quốc xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ, Đảng ta đã từng bước thực hiện nhiệm vụ cách mạng ruộng đất. Thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến chống Pháp là một chủ trương rất đúng đắn và có tính chất sáng tạo của Đảng ta. Cuộc vận động này đã góp phần quyết định vào chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại.

Theo sự tự thuật của Bác Hồ, trong “đề tài” viết báo của Người còn có nhiệm vụ trọng yếu - đó là “tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là luận điểm trung tâm của tư tưởng Hồ Chí Minh, nó thâm nhập và xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người trong các thời kỳ và trên các lĩnh vực hoạt động.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh, không chỉ phát huy tác dụng trong giai đoạn Đảng ta lãnh đạo Nhân dân tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (1945 - 1954), mà còn xuyên suốt quá trình đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng khác nhau - cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong giai đoạn 1954 - 1975, cũng như trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Theo Bác Hồ, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội “là làm sao cho dân giàu nước mạnh, mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”. Một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của Nhân dân. Xuất phát từ đặt điểm của nước ta, Bác đề ra chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Bác Hồ đã để lại cho Đảng ta, Nhân dân ta, đất nước ta một di sản báo chí cách mạng thật đồ sộ. Đó không phải là bảng thống kê ghi chép những số liệu báo chí mà Người đã viết. Đó là một công trình xây dựng hoành tráng về tư tưởng của báo chí cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại vẻ vang nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc. 

----------------------------------

(1), (3) Tên của Bác Hồ thời trẻ (2) Tất cả những đoạn trích dẫn không ghi chú thích của bài viết này, được nghiên cứu trong bộ sách V.I.Lê-nin toàn tập, do Nxb. Chính trị Quốc gia ấn hành, xuất bản lần thừ hai, năm 2000

(4), (5) Trần Văn Giàu tuyển tập, Nxb. Giáo dục, HN, 2000, tr.1214,1216

Bình luận (0)

Lên đầu trang