Gò Tháp - trái tim của bưng biền Đồng Tháp Mười, nơi hai lần thiết lập đại bản doanh của cơ quan lãnh đạo đầu não để tổ chức kháng chiến chống Pháp
Trên cơ sở rút ra bài học kinh nghiệm xương máu về sự thất bại của Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940, trước và sau ngày nổ ra cuộc Nam Bộ kháng chiến 23/9/1945, Xứ ủy Nam Bộ hết sức quan tâm đến việc tổ chức thực hiện Chỉ thị của Bác Hồ và Trung ương Đảng nhằm xây dựng căn cứ địa kháng chiến để đánh lâu dài. Trong một bài giảng về "Vấn đề xây dựng căn cứ địa" tại trường Trường Chinh vào đầu những năm 1950, đồng chí Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn đã viết: "Căn cứ địa có thể thành lập được ở nhiều nơi - căn cứ địa ở miền đồng bằng, căn cứ địa miền ao hồ, căn cứ địa miền rừng núi. Nhưng căn cứ địa phải được chọn ở nơi tiến ra có thể tấn công được, rút lui có thể thủ (cầm cự) được. Và như thế, muốn lập căn cứ địa không phải chỉ nhờ ở điều kiện địa thế hiểm trở của rừng sâu núi lớn". Rõ ràng, chiến khu bưng biền Đồng Tháp Mười đã ra đời trên cơ sở của tư duy lý luận quân sự quan trọng đó.
Trong bài viết: "Xứ ủy Nam Bộ - Trung ương Cục miền Nam, nhớ lại và suy nghĩ”, đồng chí Phan Triêm - nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, một trong những Chánh Văn phòng đầu tiên của Xứ ủy Nam Bộ, đã xác định: vào tháng 6/1997, tôi và một số đồng chí về tận xã Đốc Binh Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp... tìm gặp lại những gia đình đồng bào đã từng cưu mang, nuôi dưỡng các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy Nam Bộ lúc bấy giờ. Đoàn đã tìm lại được những nơi ở và làm việc của các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng, Phạm Văn Bạch... và đã xác định được chính nơi đây là di tích khu căn cứ đầu tiên của Xứ ủy Nam Bộ, từ 1945 đến 1949.

Hội nghị quân - dân - chính - Đảng toàn Nam Bộ tại Đồng Tháp Mười, năm 1948
Không ít người đã biết, tại vùng này trước đây, đồng chí Lê Duẩn đã làm việc ở nhà ông Ba Thanh, ông Hào Gần (Tư Gần). Đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh ở nhà ông Bảy Dạng. Đồng chí Hà Huy Giáp và Nguyễn Văn Nguyễn ở nhà ông Tám Dinh. Đồng chí Phạm Hùng và Ung Văn Khiêm ở nhà ông Tư Hương. Đồng chí Lê Đức Thọ ở nhà bà Má Chín. Theo lời kể của một số vị cao niên tại địa phương, nhà ông Tám Kiệm tại khu vực dọc theo kinh Tháp Mười hiện nay, trước đây là nơi ở và hoạt động của các đồng chí Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Bạch, Ung Văn Khiêm. Nhà ông Lương Văn Hộ và ông Bảy Thiệt là nơi làm lễ khai trương Nhà in Trần Phú. Nhà ông xã đội trưởng xã Tân Kiểu là nơi đóng cơ quan của Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ. Khóa huấn luyện chính trị đầu tiên của cơ quan này được mở tại một ngôi đình ở Kinh Ba - Gò Tháp. Cá biệt, cũng có cơ quan đơn vị trước đây cất nhà để ở, như Xứ đoàn Thanh niên Cứu quốc Nam Bộ cất nhà trong khu vực trường học Đốc Binh Kiều hiện nay.
Trong quyển sách hồi ký nổi tiếng "Từ đất Tiền Giang", đồng chí Nguyễn Thị Thập - nguyên Xứ ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ, trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, cũng kể lại: Từ cuối năm 1945, Đốc Binh Kiều được coi như căn cứ của ta. Cả Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ đều đóng ở đây. Tôi đã từng đến nơi này để họp Xứ ủy và gặp đồng chí Tôn Đức Thắng - phụ trách quân sự của Ủy ban Kháng chiến để xin tiếp tế đạn dược, ghe tàu, súng ống, lương thực cho quân dân tỉnh Mỹ Tho.
Đồng chí Nguyễn Trung Tín - một cán bộ lão thành, người đã làm việc lâu năm tại Văn phòng Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ, đã hồi tưởng lại: Năm 1947, Xứ ủy đóng cơ quan trên bờ kinh Dương Văn Dương, đoạn thuộc xã Nhơn Hòa Lập. Đến cuối năm đó, được chuyển tới Kinh Ba - Gò Tháp, nay thuộc địa phận xã Tân Kiểu, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Như vậy, trong 4 năm chỉ đạo và tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Đồng Tháp Mười, ngay từ đầu, Xứ ủy Nam Bộ đã thiết lập bản doanh trên địa bàn các huyện Tháp Mười (Đồng Tháp), Mộc Hóa và Tân Thạnh (Long An). Cố nhiên, tại vùng Kinh Ba - Gò Tháp, Văn phòng Thường vụ Xứ ủy và một số cơ quan, đơn vị trực thuộc đã ở nhiều hơn, trú đóng lâu và dài ngày hơn cho đến khi di chuyển xuống Khu 9 vào cuối năm 1949.
Gò Tháp là một gò đất pha cát do bàn tay con người bồi đắp dựa trên sự tạo thành ban đầu của tự nhiên. Đỉnh gò dài trên 500m, rộng 300m nhưng chân gò chạy thoai thoải mở rộng ra hướng Tây Nam, diện tích gần 1km2. Qua bài thơ dạt dào tình cảm của đồng chí Lê Đức Thọ - nguyên Bí thư Trung ương Cục Miền Nam viết bên dòng Kinh Ba lịch sử, khi về thăm lại chiến khu xưa sau ngày Miền Nam giải phóng, chúng ta có thể hình dung được phần nào nơi cơ quan lãnh đạo đầu não cuộc kháng chiến chống Pháp trú đóng trong ngôi nhà của một bà "Mẹ chiến sĩ”:
"Tôi từ Việt Bắc vào Đồng Tháp
Căn cứ năm nào để đánh Tây
Má Chín, Kinh Ba - ôi nhớ mãi
Đâu còn mong gặp má hôm nay
Ba lăm năm ấy nhiều thay đổi
Đánh Pháp thua rồi, đánh Mỹ thua
Đồng Tháp xuân về, trang sử mới
Nghĩa tình trọn vẹn vẫn như xưa".
Đọc bài thơ của đồng chí Lê Đức Thọ, khiến chúng ta nhớ lại nội dung bài báo của Tổng Bí thư Trường Chinh. Giữa Thu - Đông 1947, khi giặc Pháp huy động hơn 20.000 quân tinh nhuệ đánh lên chiến khu Việt Bắc, đồng chí Tổng Bí thư Đảng ta đã chỉ rõ: Trong thời kỳ Trung Hoa kháng Nhật, căn cứ địa của họ rộng mênh mông nối dài từ Trùng Khánh đến Vân Nam, Tứ Xuyên... Còn trong cuộc kháng chiến chống Pháp của ta, "hậu phương an toàn có thể nói là không có, hay là có ngay giữa dân chúng, gần sát với mặt trận chính". Nhận xét đó, hoàn toàn chính xác với chiến khu bưng biền Đồng Tháp Mười trên chiến trường Nam Bộ. Thuở ấy, chúng ta thường gọi đây là căn cứ kháng chiến nằm trong hình thể "chiến tranh cài răng lược", không rõ đâu là hậu phương, đâu là tiền tuyến.
Địa điểm trú đóng của những cơ quan quân - dân - chính - Đảng trực thuộc Xứ ủy và Ủy ban kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ
Sau Hội nghị Xứ ủy lâm thời mở rộng tháng 11/1946 tại kinh Năm Ngàn, các cơ quan quân - dân - chính - Đảng cấp Nam Bộ đều quy tụ về đóng tại căn cứ Đồng Tháp Mười. Do tính chất đặc thù của chiến trường Nam Bộ, vì vùng căn cứ của chúng ta hẹp, các đơn vị bộ đội và cơ quan đều trú đóng trong nhà dân.
Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua những nơi làm việc của đồng chí Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn. Có khi, đồng chí sống ở nhà ông Hai Độc Lập (tức Nguyễn Văn Siêu) và nhà bà má Tám (tức Nguyễn Thị Thay) trên kênh Dương Văn Dương. Có nhiều lúc, đồng chí điều hành công việc tại nhà ông Hào Gần (Tư Gần), nhà ông Ba Thanh ở Kênh Ba - Gò Tháp. Cũng có thời gian, đồng chí công tác bên Phòng Dân quân Nam Bộ tại Giồng Lức...
Giống như vậy, cơ quan Xứ ủy Nam Bộ khi đó gọi là Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác (vì về mặt công khai, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tuyên bố tự giải tán) và một số đơn vị, ban ngành trực thuộc nói chung, trú đóng tại vùng Kênh Ba - Gò Tháp. Tuy nhiên, trong từng thời gian, cũng có lúc đóng ở kênh 4 Bis, kênh Cái Bèo và các xã Mỹ Quý, Mỹ An...
Còn Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ, Sở Tài chánh, Sở Thông tin, Sở Giáo dục, Sở Tư pháp, Viện Văn hóa Kháng chiến, Sở Giao thông Liên lạc, Phòng Vô tuyến điện, Đài phát thanh Tiếng nói Nam Bộ kháng chiến, Dân y viện (tiền thân Sở Y tế), Hộ sinh viện, Kỳ ủy Đảng Dân chủ, Mặt trận Liên Việt, Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Phụ nữ Dân chủ, Nam Thanh đoàn, Hội sinh viên, Ban chỉ huy Quốc vệ đội, Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Khu 8, các binh công xưởng... ở trong địa phận những xã Tân Hòa, Nhơn Ninh, Tân Ninh, Nhơn Hòa Lập.
Nói chung, các cơ quan chia nhau rải ra đóng và di chuyển khắp Đồng Tháp Mười. Thường cứ độ 15 ngày phải dời căn cứ. Những nơi ở lâu nhất là Giồng Dinh, Giồng Lức phía sông Vàm Cỏ Tây, trên hai bờ kênh Dương Văn Dương, kinh 4 Bis, kinh Nguyễn Văn Tiếp, kinh Cái Bèo, Gãy Cờ Đen... Nhà của đồng bào ta thời đó hầu hết là nền đất, chủ yếu dựng bằng cây tràm, tre, gáo, trâm bầu... lợp bằng lau, đế, sậy. Đồng Tháp Mười thời đó dân cư thưa thớt và còn rất nghèo. Theo hồi ký của đồng chí Nguyễn Thị Thập, trong những năm tiền khởi nghĩa, từ Đốc Binh Kiều lên Thiên Hộ, Cái Bèo, hai bên bờ kinh đều hoang vắng, chẳng có nhà cửa, cây cối. Họa hoằn lắm mới thấy một túp lều vó và năm ba cây đào lộn hột.
Trong 4 năm Xứ ủy Nam Bộ thiết lập bản doanh để chỉ đạo việc tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp tại chiến khu Đồng Tháp Mười, đã diễn ra rất nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Dưới đây là tóm lược sự kiện có ý nghĩa tiêu biểu:
Đại hội đại biểu Xứ Đảng bộ Nam Bộ lần thứ nhất (16 - 20/12/1947) tại kinh Năm Ngàn, xã Nhơn Ninh, huyện Mộc Hóa, Đồng Tháp Mười, căn cứ của Khu 8. Đây là Đại hội đại biểu Xứ Đảng bộ Nam Bộ lần thứ nhất và cũng là lần duy nhất. Nội dung nghị quyết của Đại hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Thành công lớn nhất của Đại hội là tạo được sự đoàn kết trong toàn Đảng bộ, sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức. Tham dự Đại hội có 63 đại biểu chính thức và 5 dự thính. Qua 4 ngày làm việc, Đại hội đã tập trung thảo luận để làm sáng tỏ những quan điểm tư tưởng cơ bản của Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ được vận dụng trên toàn chiến trường Nam Bộ. Chủ yếu đi sâu vào việc giải quyết những nhiệm vụ bức xúc sau: Phát huy sức mạnh của chiến tranh Nhân dân; phát động phong trào đấu tranh ở đô thị và vùng địch tạm chiếm; giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân; mở rộng mặt trận đoàn kết kháng chiến; mở rộng và củng cố sự vững mạnh của chính quyền kháng chiến; công tác xây dựng Đảng... Đại hội đã nêu ra khẩu hiệu chiến đấu nổi tiếng: "Mỗi công dân là một người lính, mỗi làng mạc là một chiến hào".
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Xứ Đảng bộ gồm 15 ủy viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết; trực tiếp bầu đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư Xứ ủy, các đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh và Nguyễn Đức Thuận làm Phó Bí thư, các đồng chí Phạm Hùng và Ung Văn Khiêm làm ủy viên Thường vụ.
Đại hội đã đặc biệt ghi nhận sự đóng góp sắc sảo của đồng chí Lê Duẩn. Với bộ óc sáng suốt và nhạy cảm với thực tế, đồng chí đã quán triệt đường lối của Đảng trong việc xử lý các vấn đề từ đặc điểm địa phương và con người Nam Bộ, đưa phong trào Cách mạng vào quỹ đạo trong buổi đầu kháng chiến. Đồng chí Lê Duẩn được các đại biểu tôn vinh là "đại diện Cụ Hồ", được các trí thức đặc biệt vinh danh là "ngọn đèn 200 nến".
(Còn tiếp)