BỐN NĂM, BỐN LẦN CHO MỘT VĂN BẢN HƠN 1.000 CHỮ
Vào dịp 02/9/1989, nhân kỷ niệm 20 năm ngày qua đời của Người, BCH Trung ương Đảng (khóa VI) đã công bố toàn bộ ảnh chụp bút tích Di chúc của Bác Hồ. Chúng ta từ bất ngờ đến xúc động và kính phục khi được chạm đến một bằng chứng xác đáng về tinh thần lao động mẫu mực của một người cầm bút có trách nhiệm, tinh tế và sâu sắc ngay cả khi viết những dòng chữ cuối cùng của đời mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ảnh tư liệu
Hình như chưa bao giờ Người hài lòng với những gì đã viết. Năm nay viết, mấy năm sau lại tìm cách thêm bớt, thay đổi cả những đoạn đã từng được sửa chữa. Cứ mỗi lần viết, Bác để tâm cân nhắc từng chữ, lựa chọn từng ý từng lời, vừa viết vừa sửa. Có khi viết xong, đọc lại, Bác lại sửa tiếp bằng mực đỏ. Người luôn tìm cách diễn đạt sao cho chính xác hơn, hay hơn, tốt hơn.
Ngày 15/5/1965, Bác hoàn thành bản thảo thứ nhất, gồm 3 trang đánh máy, có chữ ký của Bác và của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, là bản hoàn chỉnh về nội dung và bố cục (quy ước gọi là bản A). Ba năm sau, Bác viết tiếp 2 trang để sửa lại đoạn mở đầu và phần nói “về việc riêng” (bản B1), đồng thời viết thêm 4 trang để nói về những việc cần làm ngay sau khi kháng chiến thắng lợi (bản B2). Không vừa lòng với đoạn mở đầu đã viết và đã hơn một lần sửa chữa, một năm sau nữa, ngày 10/5/1969, Bác đã viết lại toàn bộ đoạn mở đầu (bản C).
Những con số sau đây chứng minh Bác Hồ đã lao động công phu đến dường nào: Bản A, Bác có 2 lần bổ sung bằng cách viết tay lên bản đánh máy. Bản B1, Bác sửa chữa 9 lần; bản B2: 30 lần và bản C là 16 lần. Tổng cộng, trên từng trang bản thảo, có đến 57 lần Bác sửa chữa: gồm 32 lần lựa chọn lại từ ngữ, 22 lần tổ chức lại câu / các thành phần của câu và 3 lần bổ sung thêm câu, thêm đoạn.
Chưa hết, nếu đối chiếu nội dung giữa các bản thảo với nhau, trong đó lấy bản A làm gốc (đây là bản chính thức, có chữ ký của người viết và người chứng kiến), chúng ta đếm được sau đó Bác đã có 10 lần bổ sung và 8 lần sửa chữa!
MỘT BẬC THẦY ĐIÊU LUYỆN TIẾNG VIỆT
Dựa vào các con chữ đánh máy hoặc viết tay, màu mực xanh hoặc đỏ, cùng với các ký hiệu thao tác như xóa, bổ sung, chèn vào, đảo vị, chọn lại; chúng ta có thể tái hiện lại quá trình thực hiện việc sửa chữa Di chúc. Trong nỗ lực tìm hiểu các trường hợp sửa chữa đó, thực chất là đi tìm kiếm lời giải đáp cho câu hỏi “Vì sao Bác Hồ sửa chữa ngôn từ như thế?”, chúng ta nhận ra bên cạnh tấm gương lao động ngôn từ của Người là tài năng của một bậc thầy điêu luyện tiếng Việt!
Đó là sức mạnh của sự chuẩn xác, sự tinh tế, sự hàm súc!
Trong bản B2, bút tích của Bác có một đoạn như sau: “... công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ (dã man) gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man”. Đây là trường hợp Bác cân nhắc lựa chọn giữa “đế quốc Mỹ dã man” hay là “cuộc chiến tranh xâm lược dã man”.
Rõ ràng bản chất dã man của kẻ thù thể hiện trước hết ở tính chất của cuộc chiến do chúng gây ra. Như vậy, khi khẳng định tính chất của cuộc chiến tranh, người viết cũng đồng thời vạch rõ được bản chất của những kẻ gây ra chiến tranh. Mặt khác, khi quan sát chuỗi lô-gích: Đế quốc Mỹ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược > cuộc chiến tranh xâm lược gây ra những vết thương chiến tranh cần phải hàn gắn; chúng ta lại thấy: muốn nhấn mạnh đến tính chất nghiêm trọng của những vết thương chiến tranh, cần phải nhấn mạnh đến tính chất dã man của cuộc chiến tranh đó! Vậy nên, khi lựa chọn kiểu diễn đạt với “cuộc chiến tranh xâm lược dã man” (chứ không phải “đế quốc Mỹ dã man”), Bác đã thực hiện được một “yêu cầu kép”: vừa vạch rõ bản chất của kẻ thù, vừa nhấn mạnh được tính chất nghiêm trọng của hậu quả chiến tranh mà chúng ta phải mau chóng hàn gắn.
Khi nói về mình, Bác thay từ “mộ” bằng từ “mả” - Người chọn cách nói khiêm tốn. Khi nói về ý định đến ngày thắng lợi, sẽ đi khắp hai miền Nam - Bắc để gặp gỡ mọi người, Bác đã dùng kiểu diễn đạt rất tinh tế, thể hiện vị trí của người phát ngôn trong từng hành động: Với tư cách lãnh tụ, Bác đi “để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng”. Với tư cách là người lớn tuổi, Bác “thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta”. (Ảnh 1).
Bác Hồ nói và viết rất ngắn gọn. Tất nhiên khi cần thiết, do yêu cầu của nội dung, Bác vẫn sẵn sàng và trên thực tế đã bổ sung từng chữ, từng từ đến cả một đoạn văn dài. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng thấy rất rõ “biệt tài” kiệm lời của Người. Trong Di chúc, có đến 10 trường hợp Bác đã lược bớt những yếu tố dư thừa mà lượng nghĩa không hề giảm sút, thậm chí có khi còn được nâng lên.
Thử so sánh 3 câu sau đây:
- Vì vậy, tôi để lại mấy lời này... (bản A)
- Vì vậy, tôi viết sẵn và để lại mấy lời này ... (bản B1)
- Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này... (bản C).
Rõ ràng là đến lần thứ ba này, chữ đã được rút gọn tối đa mà nghĩa thì vẫn bao trùm được hết những gì cần diễn đạt.
CHIỀU KÍCH VĨ NHÂN TRÊN TỪNG CON CHỮ
Trong Di chúc, có một hiện tượng rất đáng chú ý: bên cạnh các từ “nhân dân”, “cách mạng”, “giai cấp” không viết hoa, từ “Đảng” có lúc được có lúc không viết hoa, riêng “Tổ quốc” dù là từ đầu dòng hay giữa dòng, dù là đánh máy hay viết tay, Người luôn luôn viết hoa. Thống kê: bản A có 3 từ “Tổ quốc” (1 từ đầu dòng), bản B1 có 2 từ, bản B2 và bản C, mỗi bản có 1 từ. “Tổ quốc” viết hoa vừa mang ý nghĩa đề cao (Tổ quốc trên hết), vừa mang nét nghĩa cá thể hóa (Tổ quốc của chúng ta)!
Cũng cần nói thêm là, Bác rất hay dùng từ “ta” để tạo ra các danh ngữ như: Tổ quốc ta, nhân dân ta, đồng bào ta, Đảng ta, Đảng và Chính phủ ta... Bản A có 17 tổ hợp từ có “ta”, bản B2 có 7 và bản C có 3 trường hợp. Điều đó khẳng định lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức đề cao giá trị của đất nước trong tâm hồn Bác rất mạnh mẽ, nó tồn tại trong Người như máu như thịt và hiện ra tự nhiên trong lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Bản B2 viết về những công việc cần làm sau khi “cuộc chống Mỹ cứu nước” kết thúc, chúng ta thấy những dòng mực đỏ chen giữa các dòng chính của phần nói về “công việc đối với con người” như sau: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại đảng…”. Mấy chữ “chỉnh đốn lại đảng” được Bác gạch chân (nhấn mạnh) cũng bằng mực đỏ. Hơn 50 năm nhìn lại, chứng kiến Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng mà Đảng tiến hành từ năm 1999 đến nay, mới thấy được tầm nhìn của Bác vượt xa thời đại đến như thế nào!
Tấm lòng của Bác đối với đồng bào cả nước mênh mông, vô hạn. Sống ở miền Bắc liên tục từ những ngày đầu cách mạng cho đến khi qua đời, Bác vẫn có đủ lý do để viết: để lại một phần thi thể của mình ở miền Bắc. Nhưng cả trong trường hợp này Bác cũng không nói thế!

Bút tích của Bác trong Bản Di chúc
Trong bản B1, sau khi viết: “Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành”, Bác viết tiếp: “Một hộp để lại miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam”. Sau đó, ta thấy Bác gạch bỏ hai từ “để lại” và nhất loạt dùng từ “cho” cho cả 3 miền (Ảnh 2). Bác không muốn chọn vị trí phát ngôn thuộc về miền Bắc. Bác muốn dành cho đồng bào cả nước ở mọi miền phần thân xác và tấm lòng của mình đều ngang bằng nhau. Bác tinh tế, sâu sắc và chu đáo đến từng ý, từng lời đến như thế!
Di chúc cũng toát lên một phong thái ung dung thanh thản của người chiến sĩ cách mạng, đón nhận cái chết nhưng vẫn không thôi nghĩ đến nhiệm vụ với Tổ quốc, với Nhân dân. Thay vì viết: “Ai đoán biết được tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy tháng, mấy năm nữa?” (bản A), Bác đã chữa lại thành: “Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?” (bản C). Đối với Người, điều đáng quan tâm không phải là việc còn sống mà chính là việc còn được phục vụ!
*
* *
Từ tấm gương và bài học ngôn từ mà Người để lại, chúng ta hiểu sâu sắc rằng: Nói và viết nào chỉ đơn thuần là kỹ thuật chữ nghĩa. Nó đích thực là tấm gương phản chiếu trí tuệ và tâm hồn, năng lực và đạo đức của mỗi người. Cũng chính từ đó, chúng ta càng hiểu rõ ý nghĩa và giá trị lời dạy của Bác khi xưa: Rèn luyện cách nói, cách viết cũng là một nội dung rèn luyện tư cách, phẩm chất của người cán bộ, đảng viên.
DƯƠNG THÀNH TRUYỀN (nguyên Phó Tổng Biên tập Báo Tuổi Trẻ)