Luật gồm 7 chương, 46 điều, quy định về Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước; thẻ căn cước, căn cước điện tử; giấy chứng nhận căn cước; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Luật áp dụng đối với công dân Việt Nam; người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch đang sinh sống tại Việt Nam; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Quốc hội nghe báo cáo giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo luật
Trong báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh Lê Tấn Tới cho biết, qua thảo luận tại kỳ họp thứ 6 và phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội giữa 2 đợt của kỳ họp thứ 6, hầu hết ý kiến đại biểu Quốc hội và ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều đồng ý với tên Luật Căn cước và thẻ căn cước.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc sử dụng tên gọi Luật căn cước thể hiện rõ tính khoa học, vừa bao quát được phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật, vừa phù hợp với xu hướng quản lý xã hội số.
Với việc tích hợp đầy đủ thông tin một cách khoa học trong thẻ căn cước cùng với hình thức, phương thức quản lý số bảo đảm tính đại chúng, việc đổi tên thành thẻ căn cước sẽ giúp cho công tác quản lý Nhà nước có tính khoa học hơn, phục vụ công cuộc chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số của Chính phủ. Việc này cũng tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho người dân trong tham gia các hoạt động xã hội cũng như giao dịch về hành chính, dân sự ngày càng tiện lợi.
Độ tuổi cấp đổi thẻ căn cước, theo quy định của luật, công dân Việt Nam đã được cấp thẻ căn cước phải thực hiện thủ tục cấp đổi thẻ căn cước khi đủ 14 tuổi, 25 tuổi, 40 tuổi và 60 tuổi.
Thẻ căn cước đã được cấp, cấp đổi, cấp lại trong thời hạn 02 năm trước độ tuổi cấp đổi thẻ căn cước theo quy định trên có giá trị sử dụng đến tuổi cấp đổi thẻ tiếp theo.
Các thông tin tích hợp vào thẻ căn cước và việc sử dụng, khai thác thông tin này được quy định tại Điều 22 của Luật. Theo đó, tích hợp thông tin vào thẻ căn cước được hiểu là việc bổ sung vào bộ phận lưu trữ của thẻ căn cước những thông tin ngoài thông tin về căn cước và được mã hóa. Thông tin được tích hợp theo đề nghị của công dân và phải được xác thực thông qua cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành.
Thông tin được tích hợp vào thẻ căn cước gồm thông tin thẻ bảo hiểm y tế, sổ bảo hiểm xã hội, giấy phép lái xe, giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn hoặc giấy tờ khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định, trừ thông tin trên giấy tờ do Bộ Quốc phòng cấp.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh Lê Tấn Tới, đến nay Bộ Công an đã cấp hơn 83 triệu thẻ căn cước cho công dân đủ điều kiện, chỉ còn một số rất ít công dân sử dụng chứng minh nhân dân và sẽ không thể cấp căn cước điện tử, không thể khai thác các tiện ích của thẻ căn cước gắn chip và căn cước điện tử trong các giao dịch trực tuyến cũng như sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu.
Do vậy, việc tiếp tục sử dụng chứng minh nhân dân không còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho người dân thực hiện một số giao dịch liên quan đến chứng minh nhân dân trong giai đoạn chuyển tiếp, Luật quy định chứng minh nhân dân còn thời hạn sử dụng đã được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, được sử dụng đến hết ngày 31/12/2024.
Các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành sử dụng thông tin từ chứng minh nhân dân, căn cước công dân được giữ nguyên giá trị sử dụng; cơ quan Nhà nước không được yêu cầu công dân thay đổi, điều chỉnh thông tin về chứng minh nhân dân, căn cước công dân trong giấy tờ đã cấp.
Cạnh đó, Luật cũng quy định Thẻ căn cước công dân, chứng minh nhân dân hết hạn sử dụng từ ngày 15/1/2024 đến trước ngày 30/6/2024 tiếp tục có giá trị sử dụng đến hết ngày 30/6/2024.
Luật Căn cước có hiệu lực thi hành từ 1/7/2024.