Chiều 12/6, tại Nhà Quốc hội, tiếp tục Chương trình Phiên họp thứ 34 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ.
Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội đã thảo luận tại Tổ và Hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ. Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh (UBQPAN) đã chủ trì, phối hợp với cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Luật.
Toàn cảnh Phiên họp
Báo cáo tại phiên họp về một số vấn đề lớn của dự thảo Luật, Chủ nhiệm UBQPAN Lê Tấn Tới nêu rõ, về bổ sung đối tượng cảnh vệ là Thường trực Ban Bí thư, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (điểm b khoản 3 Điều 1), Thường trực UBQPAN cho rằng, khoản 1 Điều 10 của Luật Cảnh vệ (được sửa đổi, bổ sung tại điểm b khoản 3 Điều 1 dự thảo Luật này) quy định đối tượng cảnh vệ là người giữ chức vụ, chức danh lãnh đạo chủ chốt, lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo hướng liệt kê các đối tượng cảnh vệ cụ thể (trong đó có người giữ chức vụ, chức danh Thường trực Ban Bí thư) là thống nhất với nội dung Kết luận số 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.
Theo đó, Kết luận số 35-KL/TW đã xác định Lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm: Thường trực Ban Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư… và Luật Cảnh vệ hiện hành đã quy định Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng (Ủy viên Ban Bí thư) là đối tượng cảnh vệ. Do đó, dự thảo Luật bổ sung người giữ chức vụ, chức danh Thường trực Ban Bí thư là đối tượng cảnh vệ là phù hợp và không mâu thuẫn với quy định tại Quy chế làm việc của Ban Bí thư.
Chủ nhiệm UBQPAN Lê Tấn Tới báo cáo, giải trình tại phiên họp
Về chế độ, biện pháp cảnh vệ đã được quy định tại Điều 11 và Điều 11a theo nhóm đối tượng, phù hợp với các nhóm chức vụ, chức danh theo Kết luận số 35-KL/TW. Thường trực UBQPAN đề nghị UBTVQH cho giữ lại quy định về đối tượng cảnh vệ là Thường trực Ban Bí thư trong dự thảo Luật và không bổ sung quy định chế độ, biện pháp cảnh vệ riêng đối với đối tượng cảnh vệ này.
Về đối tượng cảnh vệ là khách quốc tế đến thăm, làm việc tại Việt Nam (khoản 2 Điều 10 Luật hiện hành và điểm c, điểm d khoản 3 Điều 1 của dự thảo Luật), Thường trực UBQPAN đề nghị UBTVQH cho giữ nguyên hai nhóm khách quốc tế quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật Cảnh vệ (được sửa đổi, bổ sung tại điểm c, điểm d khoản 3 Điều 1 của dự thảo Luật này) và chỉnh sửa về kỹ thuật văn bản cho phù hợp.
Về bổ sung quy định áp dụng biện pháp cảnh vệ đối với trường hợp không thuộc đối tượng quy định của Luật Cảnh vệ (điểm e khoản 3 Điều 1), Thường trực UBQPAN cho rằng, theo quy định của pháp luật thì Bộ trưởng Bộ Công an có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, bao gồm cả biện pháp cảnh vệ để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Do đó, việc dự thảo Luật bổ sung quy định Bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ đối với trường hợp không thuộc đối tượng cảnh vệ là phù hợp với thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Công an, cụ thể hóa quy định tại khoản 2 Điều 14 của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng yêu cầu công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và công tác cảnh vệ.
Do việc quyết định áp dụng các biện pháp cảnh vệ có liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp nên cần phải được quy định trong luật; việc giao Bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ cụ thể, không phải giao ban hành văn bản quy định về nội dung này, là phù hợp với quy định của Hiến pháp.
Về lực lượng Cảnh vệ (khoản 11 Điều 1), tiếp thu ý kiến ĐBQH, Thường trực UBQPAN đề nghị UBTVQH cho giữ lại nội dung quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật Cảnh vệ hiện hành để tạo sự thống nhất ngay trong dự thảo Luật và bảo đảm thống nhất với quy định của các luật khác có liên quan; đồng thời, bổ sung cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ thuộc đơn vị cấp phòng của Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Bộ trưởng Bộ Công an quyết định thành lập căn cứ yêu cầu bảo vệ đối tượng cảnh vệ như tại khoản 11 Điều 1 của dự thảo Luật.
Về bổ sung quy định thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật để thực hiện công tác cảnh vệ (khoản 13 Điều 1), Thường trực UBQPAN cho rằng, thực tiễn thực hiện công tác cảnh vệ đối với lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước khi đi công tác nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, nhất là các điều kiện về lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật.
Do đó, cần phải có cơ chế cho lực lượng Cảnh vệ chủ động thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật của nước ngoài (không phải trong nước) trong trường hợp bất khả kháng là khi đã sử dụng tất cả các nguồn nhân lực, phương tiện, thiết bị kỹ thuật mang theo mà không đáp ứng được yêu cầu của công tác cảnh vệ.
Vì vậy, dự thảo Luật bổ sung quy định Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Cục trưởng Cục Bảo vệ an ninh Quân đội có quyền quyết định thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật để bảo vệ đối tượng cảnh vệ khi đi công tác nước ngoài là phù hợp, bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, kịp thời, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với công tác cảnh vệ.
Tại phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành thảo luận, cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ tập trung vào những vấn đề nêu trên.