Mùa xuân năm ấy

Thứ Ba, 28/01/2025 19:54  | Lê Bình

|

(CATP) Những ngày giáp Tết lạnh đến tê tái, bàn tay như bị đông cứng, chạm vào đâu cũng thấy đau như bị vỡ từng mảng da. Mẹ tôi bảo cố gắng làm gieo xong thửa ruộng Cồn Trên để tuần tới còn lo đám cưới cho chị của tụi bây. Vì đám cưới của chị Hòa tổ chức cận Tết nên nhà ai cũng bận.

Chồng tương lai của chị là anh Thịnh, người làng bên. Sở dĩ cưới vào thời điểm này do anh bận công tác, chỉ về phép được ít ngày, cưới vợ xong anh sẽ về đơn vị ở tận Tây Ninh. Nghe đâu bố mẹ anh ấy cũng tính sau ngày cưới bán một phần đất, hỗ trợ anh mua căn nhà ở trong ấy để đưa vợ vào.

Ngày đó, tôi là một cậu nhóc chuyên phá làng phá xóm. Tôi biết anh chị quen nhau trong một lần tham gia công tác thiếu nhi của xóm rồi có tình cảm nhưng không dám thể hiện, phần vì sợ cha mẹ, phần vì anh chuẩn bị đi nghĩa vụ xa quê không biết khi nào về. Với bọn tôi ấn tượng nhất là được anh “giải cứu” khỏi trận roi của cha trong vụ cùng mấy thằng bạn hái trộm bưởi hàng xóm. Tôi rất thích mượn cái hộp quẹt lửa có khắc sao vàng trên nắp mỗi khi anh qua nhà chơi để khoe với bạn bè về anh rể tương lai.

Thế rồi anh đi nghĩa vụ ở tận Tây Ninh, cách Hà Tĩnh khoảng 1.500km, chị ở nhà vẫn chờ đợi. Trong suốt hai năm dài miên man ấy, mỗi lần về phép anh đều ghé qua nhà. Lúc thì biếu cha mẹ tôi một ký hạt sen nghe nói lấy từ vùng Đồng Tháp Mười, lúc thì mấy kg mứt dừa Bến Tre. Cứ như vậy, trở thành thói quen cho bọn trẻ chúng tôi, mỗi lần anh Thịnh về là biết ngay sắp có quà. Trong thời gian vắng anh, nhiều đám trai làng bên cũng đến ngỏ lời nhưng chị từ chối, chị chỉ yêu mình anh. Sau những lần đó, lời đồn của những kẻ vô công rỗi nghề về chuyện Thịnh đã quên chị, sắp lấy vợ miền Nam hay anh đã thay lòng đổi dạ vì có người đàn bà phố thị xinh đẹp nơi anh đóng quân đã không ít lần lấy hết nước mắt của chị. Nhưng vượt qua tất cả, chị vẫn chờ đợi và anh cũng đã về như lời hẹn. Đám cưới được hai gia đình ấn định vào một ngày rét mướt giáp Tết năm Tân Mùi - 1991.

Đón Tết ở quê nhà.

Tết năm ấy, gia đình tôi vui hơn hẳn, vì sắp có thêm một chàng rể. Ai cũng rộn ràng nhưng tôi biết trong nụ cười của mẹ vẫn hiện lên nét buồn. Bởi mẹ tôi thương chị nhất, không chỉ vì chị là con gái đầu, chịu nhiều thiệt thòi để lo cho em ăn học, mà một phần vì thể trạng chị yếu. Mẹ lo không biết sau này về nhà chồng sẽ sống thế nào, những việc nặng tay nặng chân không biết chị có làm nổi không… Còn cha tôi thì dường như không quan tâm đến việc đó, ông thường động viên “trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng là chuyện thường nên tự khắc sẽ thích hợp”. Ông dặn mẹ dạy chị khi về sống với nhà chồng sẽ như thế nào, họ hàng bên đó thì phải đối xử ra làm sao để khỏi mang tiếng bên nhà gái.

Mỗi lần thấy khóe mắt của mẹ rơm rớm, ông lại đùa: “Ngày xưa lấy tôi thì bà cũng chỉ là một cô bé chưa bao giờ bước chân ra khỏi làng. Nay thì xem, bà còn quản lý cả tôi nữa ấy chứ”. Mẹ gạt nước mắt: “Thì tôi còn có ông bên cạnh, còn nó lấy chồng rồi chồng phải đi làm xa, lúc có chuyện gì ai bảo vệ nó? Cứ nghĩ đến chuyện ấy tôi đau lòng…”.

Đám cưới diễn ra đúng dịp bạn bè về quê ăn Tết nên tập trung rất đông, trống nhạc rộn ràng, ai đến nhà cũng mang theo lời chúc trăm năm hạnh phúc. Thương con, mẹ tuy cười nói nhận lời chúc phúc nhưng khi còn lại một mình, bà bần thần và tôi cũng thấy nhói lòng khi bắt gặp hai hàng nước mắt chảy dài trên gò má đen sạm của mẹ. Vào đêm trước lễ đưa dâu, khi mọi người vãn dần để lo công việc chính ngày mai, mẹ tôi đến bên giường, ôm chị vào lòng. Bà không cầm được nước mắt. “Mẹ thương con nhiều, là chị cả, con luôn chịu thiệt về mình để cha mẹ lo cho em ăn học. Nay con về làm dâu người ta, sẽ trở thành con cái nhà người, mẹ vui nhưng thương con đứt ruột con gái à. Cha mẹ nghèo không có gì cho con, mẹ chỉ có cái nhẫn vàng kỷ niệm ngày xưa cha tặng mẹ, nay mẹ cho con, giữ lấy”. Bà dúi cái hộp màu đỏ cũ kỹ vào tay chị.

Ngày về nhà chồng, chị khóc rất nhiều, mẹ cố dỗ chị rồi mẹ cũng khóc. Thời đó làm gì có áo cô dâu, chị chỉ được mẹ sắm cho cái áo vải lanh hoa màu hồng nhạt, khoác bên ngoài một cái áo ấm dày cộm, cái quần vải xi màu xám được may bó lại theo kiểu tân thời. Anh Thịnh thì được người bạn cho mượn chiếc xe cúp cánh én để chở cô dâu. Hình ảnh của anh chị thật đẹp hòa lẫn vào đám bạn bè sặc sỡ muôn màu, tiếng nhạc, tiếng pháo đì đùng tô điểm nét hạnh phúc của lễ vu quy. Cha và tôi đưa chị về nhà chồng, còn mẹ thì ở lại nhà vì phong tục quê tôi là thế. Vả lại bà cũng sợ không cầm được nước mắt trong đám cưới sẽ ảnh hưởng đến ngày vui của con.

Sau lễ cưới của chị, tôi thường thấy mẹ ngồi một mình nhìn vào khoảng không vô định, dường như bà rất nhớ chị và không quan tâm đến việc bên ngoài, mọi người đang háo hức đi chợ Tết. Hình ảnh của mẹ thật khó tả, bà đã cố kìm nén nỗi buồn trong niềm vui, bà thương chị với tất cả những gì có thể. Rồi thật bất ngờ bà ôm tôi vào lòng rồi đọc cho nghe bài thơ rất tâm trạng của nhà thơ Nguyễn Bính:

Gái lớn ai không phải lấy chồng!

Can gì mà khóc, nín đi không!

Nín đi! mặc áo ra chào họ,

Rõ quý con tôi! Các chị trông!

Ương ương dở dở quá đi thôi!

Cô có còn thương đến chúng tôi,

Thì đứng lên nào! Lau nước mắt,

Mình cô làm khổ mấy mươi người!

Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía,

Này gương, này lược, này hoa tai,

Muốn gì, tôi sắm cho cô đủ,

Nào đã thua ai, đã kém ai?

Ruộng tôi cày cấy, dâu tôi hái,

Nuôi dạy em cô, tôi đảm đương.

Nhà cửa tôi coi, nợ tôi giả,

Tôi còn mạnh chán! Khiến cô thương!

Đưa con ra đến cửa buồng thôi,

Mẹ phải xa con khổ mấy mươi!

Con ạ, đêm nay mình mẹ khóc.

Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi...

Thế là Tết năm đó, chị Hòa sống ở nhà chồng, nhà tôi như mất đi phân nửa niềm vui vì thiếu chị. Đêm giao thừa, nhớ chị, mẹ lại khóc, cha tôi lần này cũng không tỏ ra dửng dưng như mấy lần mẹ khóc trước đây. Ông chỉ hỏi một câu khe khẽ dường như chỉ hai ông bà nghe: “Con gái mình ở bên đó không biết giờ nó đang làm gì hả bà?...”. Mẹ vẫn ngồi im không trả lời.

Đâu đó, tiếng pháo bắt đầu nổ giòn tan, thời khắc giao hòa và mùa xuân đã đến trước ngõ.

Bình luận (0)

Lên đầu trang