Cả đời "sống chết" với rừng, lại bị quy "phá rừng"(?!)

Thứ Sáu, 22/09/2023 09:21

|

(CATP) Sau khi Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân (KSND) H.Hàm Thuận Nam "không chấp nhận toàn bộ Quyết định (QĐ) trả hồ sơ điều tra bổ sung", Tòa án nhân dân (TAND) H.Hàm Thuận Nam tiếp tục có QĐ trả hồ sơ. Lần này, Viện KSND tỉnh Bình Thuận chấp nhận thực hiện theo QĐ của tòa. Sau hơn 40 ngày điều tra bổ sung, Viện KSND tỉnh Bình Thuận giữ nguyên quan điểm truy tố…

"Sếp" trồng rừng bị quy… phá rừng (?!)

Cáo trạng số 09/CT-VKSBT-P1 (Cáo trạng 09) ngày 03/6/2022 của Viện KSND tỉnh Bình Thuận, truy tố 4 bị can. Trong đó, 3 ông: Nguyễn Tiến Dũng (SN 1960), Nguyễn Hoàng Cẩn (SN 1963) và Nguyễn Văn Hiền (SN 1963, cùng ngụ TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) bị truy tố tội "Hủy hoại rừng" theo khoản 3 Điều 189 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Ông Phạm Văn Lang (SN 1974, ngụ H.Hàm Thuận Nam) bị truy tố tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" theo Điều 185 BLHS 1999.

Ông Dũng và ông Cẩn nguyên là Tổng giám đốc (TGĐ) và Phó TGĐ Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Bình Thuận (Công ty LNBT); ông Hiền là Phó GĐ Công ty TNHH Phước Sang (Công ty PS); ông Lang là công chức Kiểm lâm.

Theo cáo trạng số 09, ngày 15/10/2011, ông Dũng đại diện Công ty LNBT ký hợp đồng kinh tế số 59/HĐKT (HĐ số 59) với Công ty PS, hợp tác đầu tư trồng rừng, trồng cây công nghiệp tại tiểu khu 279, thuộc xã Hàm Cần, H.Hàm Thuận Nam với diện tích 74ha; khoanh nuôi, bảo vệ rừng là 44ha. Tổng cộng 118ha.

Hiện trạng đất rừng tại tiểu khu 279 được xác định là "RI" theo QĐ số 03 của Thủ tướng Chính phủ

Quá trình hợp tác, ông Dũng xác định hiện trạng rừng theo kết quả kiểm kê năm 1999, trạng thái "RI" (trảng cỏ, lùm bụi, được phép trồng mới) nên chấp thuận cho Công ty PS san ủi 63,06/74ha. Theo kết luận giám định (KLGĐ), có 40,65ha là rừng trạng thái "RII" (rừng non mới tái sinh, chưa ổn định).

Đối với khu vực 44ha: Ông Dũng đồng ý với ý kiến đề xuất của Phó TGĐ Cẩn, xác định hiện trạng rừng theo kết quả kiểm kê năm 1999, ký phụ lục HĐ số 59 với Công ty PS. Từ đó, Công ty PS đã san ủi 21,63ha. Theo KLGĐ, có 20,12ha là rừng "RII".

Theo KLGĐ số 01 ngày 27/02/2020 của Giám định viên (GĐV) Nguyễn Tử Kim, có 60,77ha rừng "RII" ở cả hai khu vực (40,65 ha + 20,12ha) bị hủy hoại, với trữ lượng gỗ "ước tính" 2.455,5m3. Tổng giá trị thiệt hại là 5,775 tỷ đồng (làm tròn số), bao gồm thiệt hại về lâm sản 1,444 tỷ và thiệt hại về môi trường 4,331 tỷ đồng.

Cáo trạng 09 quy kết: Hành vi của ông Dũng, ông Cẩn dẫn đến 59,79ha rừng "RII" bị hủy hoại, với thiệt hại về trữ lượng gỗ là 2.401,4m3, quy bằng tiền về giá trị lâm sản và giá trị môi trường là 5,648 tỷ đồng. Ông Hiền làm 41,63ha rừng "RII" bị hủy hoại với 1.664,99m3 gỗ, gây thiệt hại 3,916 tỷ đồng.

Ông Lang là Kiểm lâm tiểu khu 279, biết khu vực rừng Công ty PS san ủi không có giấy phép nhưng không thực hiện biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Ông Lang đã không thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao để Công ty PS hủy hoại 60,77ha rừng "RII".

Kêu oan điều gì?

Kèm đơn kêu oan mới nhất gửi các cơ quan chức năng, ông Dũng bày tỏ: "Trong gần 40 năm gắn bó với rừng, tôi có 30 năm làm việc tại Công ty LNBT, quản lý, bảo vệ gần 20.000ha rừng và đất rừng, trồng hàng nghìn héc-ta rừng trên đất trống, đồi trọc. Công ty đã nhận được chứng chỉ FSC của Hội đồng quản lý Rừng thế giới, công nhận gần 10.000ha rừng trồng năm 2017, từ đó góp phần xây dựng thương hiệu LNBT trên thị trường sản phẩm gỗ toàn cầu. Thật buồn và đau xót, cả đời "sống chết" với rừng, nay tôi bị truy tố tội "hủy hoại rừng"! Thực tế, khu vực quy buộc "phá rừng" hiện là những cánh rừng cao su bạt ngàn, hơn 10 năm tuổi, đang được khai thác mủ. Tôi có đủ tài liệu minh chứng việc truy tố tôi thiếu căn cứ, gây oan sai".

Văn bản số 691/UBBT-NLN ngày 19/3/2003 của UBND tỉnh Bình Thuận

Cựu TGĐ trình bày: Để quy kết hành vi "hủy hoại rừng", tài liệu quan trọng nhất được nêu trong cáo trạng chính là KLGĐ "ước tính" số 01 của GĐV Nguyễn Tử Kim. Trong khi KLGĐ số 01 mang tính áp đặt, suy diễn chủ quan, không có căn cứ. Quan trọng hơn, KLGĐ này cho kết quả 60,77ha rừng trạng thái "RII" tại thời điểm 2011 - 2012, hoàn toàn trái với QĐ số 03/2001/QĐ-TTG (QĐ số 03) ngày 05/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ "phê duyệt kết quả tổng kiểm kê rừng toàn quốc năm 1999".

Ông Dũng trình bày: Từ năm 2001 - 2015, để xác định trạng thái rừng, tỉnh Bình Thuận và các địa phương khác cả nước đều áp dụng QĐ số 03 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là văn bản có tính pháp lý cao nhất, xác định hiện trạng rừng tại khu 118ha là "RI". Hơn nữa, khu đất này nằm trong phần diện tích 3.000ha, được UBND tỉnh Bình Thuận cho phép Công ty LNBT thực hiện dự án trồng rừng, thể hiện tại văn bản số 691/UBBT-NLN ngày 19/3/2003.

Ông Dũng lên tiếng: "Căn cứ vào QĐ số 03 và văn bản số 691/UBBT-NLN, Công ty LNBT ký HĐ số 59 với Công ty PS, tổ chức san ủi, trồng rừng. Buồn thay, GĐV Kim bỏ QĐ số 03 của Thủ tướng Chính phủ sang một bên, biến 60,77ha đất từ trạng thái "RI" sang "RII". Càng khó tin hơn, tại thời điểm giám định, toàn bộ khu đất đã là rừng cao su rộng lớn, không còn vết tích gì của hiện trạng cũ, nhưng GĐV Kim vẫn "cân, đong, đo, đếm", cho ra diện tích 60,77ha rừng bị hủy hoại với trữ lượng gỗ được "ước tính" để xác định thiệt hại (?!). Do đó, tôi đã đề nghị các cơ quan tố tụng xem xét, đánh giá toàn bộ vụ việc, đặc biệt là KLGĐ "ước tính" này của GĐV Kim, để tránh oan sai...".

Khi tòa bị viện… "bác"(?)

Ngày 22/6/2022, Viện KSND tỉnh Bình Thuận đã chuyển Cáo trạng 09 cùng hồ sơ vụ án đến TAND H.Hàm Thuận Nam để xét xử theo thẩm quyền.

Qua xem xét, ngày 21/9/2022, TAND H.Hàm Thuận Nam ban hành QĐ số 02/2022/HSST-QĐ (QĐ số 02) "trả hồ sơ điều tra bổ sung", nêu rõ: Nhiều tài liệu trong hồ sơ vụ án là bản phô tô không có giá trị pháp lý; nội dung một số tài liệu đã thu thập có sự khác nhau, mâu thuẫn, không thống nhất về diện tích, trạng thái rừng... Đặc biệt là sự khác nhau giữa thông tin của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Thuận (Cơ quan quản lý lĩnh vực lâm nghiệp ở địa phương) với nội dung KLGĐ số 01 của GĐV Nguyễn Tử Kim.

Do đó, không đủ cơ sở để xem xét, đánh giá căn cứ xác định diện tích, trạng thái rừng bị xâm phạm bởi hành vi của các bị can; đồng thời, không có các tài liệu để xem xét, đánh giá tính hợp pháp, có căn cứ của KLGĐ số 01 của GĐV Kim.

Trong KLGĐ số 01, GĐV Kim sử dụng từ "ước tính" để xác định trữ lượng gỗ thiệt hại là không phù hợp. Điều này làm ảnh hưởng đến tính chính xác của việc định giá tài sản, xác định trị giá thiệt hại, làm căn cứ để quy trách nhiệm đối với chủ thể vi phạm.

Cũng theo QĐ số 02, cáo trạng truy tố bị can Dũng, Cẩn, Hiền theo điểm a khoản 3 Điều 189 ("hủy hoại diện tích rừng đặc biệt lớn"); truy tố bị can Lang theo khoản 2 Điều 285 ("gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng").

Để có cơ sở đánh giá đúng tính chất, xác định mức độ, dấu hiệu "hủy hoại diện tích rừng đặc biệt lớn", "gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng", cần phải phân tích các số liệu về hậu quả thiệt hại. Tuy nhiên, Cáo trạng 09 và Kết luận điều tra không thể hiện việc phân tích, đánh giá các dấu hiệu như đã nói trên dẫn đến việc truy tố thiếu căn cứ...

Nhận thấy cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án, TAND H.Hàm Thuận Nam QĐ trả hồ sơ cho Viện KSND tỉnh Bình Thuận để điều tra bổ sung 5 vấn đề, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến KLGĐ số 01. Tòa yêu cầu thu thập các tài liệu, hồ sơ mà GĐV Kim sử dụng làm căn cứ để thực hiện giám định và ban hành KLGĐ số 01? Đồng thời, yêu cầu GĐV ký xác nhận vào các tài liệu cung cấp.

Ngày 20/10/2022, Viện trưởng Viện KSND H.Hàm Thuận Nam Lê Viết Vịnh ký văn bản số 347/VKS, nêu rõ quan điểm: "Viện kiểm sát không chấp nhận toàn bộ QĐ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của TAND H.Hàm Thuận Nam; giữ nguyên quan điểm truy tố tại Cáo trạng 09 của Viện KSND tỉnh Bình Thuận và chuyển lại hồ sơ vụ án cho TAND H.Hàm Thuận Nam để xét xử theo quy định".

(Còn tiếp...)

Bình luận (0)

Lên đầu trang